Đó chẳng phải… đũa thần!
Góp ý của GS. TSKH Hoàng Văn Kiếm, hiệu trưởng trường đại học công nghệ thông tin (CNTT), thuộc ĐHQG TP.HCM, về chủ trương kết nối các trường vào internet cáp quang.
>> Làm theo “đề nghị” của Cục là…"Đi lùi"
>> “Khuyến nghị” này chưa phục vụ trực tiếp người dạy, người học
>> Năm học ứng dụng công nghệ thông tin: Bước đột phá và cơ hội vàng
>> Còn nhiều chuyện phải bàn…
>> Tránh "làm hôm nay, không biết ngày mai"
>> Tư duy nào cho chiến lược mạng của ngành GD - ĐT
>> Năm học CNTT: Cuộc đua của các ISP!
>> Nối cáp quang internet: Vì sao là cơ hội vàng
Luận về… thiên thời, địa lợi, nhân hòa
Theo tôi, thời gian qua, Cục CNTT thuộc Bộ GD&ĐT đã làm được nhiều việc tốt, trong đó có việc tham mưu cho Bộ ra được chủ trương thể hiện quyết tâm lớn, hợp với xu thế và hợp lòng người.
Theo tôi, chủ trương của Bộ GD&ĐT về việc tạo điều kiện cho các trường trên cả nước kết nối băng thông rộng chất lượng cao (cụ thể trong giai đoạn này gọi là nối cáp quang) rất phù hợp với xu hướng tất yếu của xã hội, phù hợp với nền giáo dục hiện đại, tạo ra điều kiện công nghệ tốt để đổi mới các hoạt động dạy và học, quản lý giáo dục đào tạo.
Chúng ta đang ở vào thời hội nhập, dùng Internet để giáo dục của ta hội nhập với giáo dục của thế giới là một xu thế cấp bách, không thể chậm hơn nữa. Cũng có thể gọi đó là thiên thời.
Chủ trương ấy còn hợp với lòng người ở chỗ: rất nhiều người nôn nóng được thỏa mãn nhu cầu sử dụng Internet để chia sẻ thông tin, học tập kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả dạy và học. Đó chính là yếu tố nhân hòa.
Ngoài ra, còn yếu tố quan trọng nữa, có thể gọi là địa lợi: hiện nay, chúng ta đã có trình độ công nghệ, có những nhà cung cấp công nghệ và hỗ trợ công nghệ đủ mạnh để giúp triển khai các mong muốn chủ quan trở thành thực tiễn, đáp ứng các nhu cầu thực tế...
Vì vậy, ngay ở thời điểm hiện nay, đã đến lúc cần phải có quyết định, quyết sách mạnh mẽ từ phía Nhà nước để thực hiện chủ trương này.
Cần chú trọng công nghệ nội dung
Đứng ở góc độ một người thầy, một nhà quản lý, tôi cho rằng thực ra việc nối mạng chỉ là một giải pháp kỹ thuật. Chúng ta phải nhớ là nó ẩn chứa hàng loạt khó khăn, như tảng băng ngầm ở dưới mà chúng ta cần nhận diện cho rõ.
Không nên nghĩ việc nối mạng Internet băng thông rộng, chất lượng cao cho đồng loạt tất cả các trường như là có… chiếc đũa thần trong tay, có thể làm biến đổi nhanh chóng nền giáo dục Việt Nam. Nghĩ như thế là… ấu trĩ.
Chúng ta không có ngân sách đâu mà bao cấp ngay một lúc, nên việc làm này cần phải có lộ trình, chiến lược thông minh.
Tôi xin chia sẻ một số băn khoăn cũng như đề nghị, để Cục CNTT và Bộ GD&ĐT cùng xem xét:
Kết nối Internet chỉ mới là một mặt của vấn đề. Ngoài công nghệ, chúng ta phải giải quyết đồng bộ một loạt các vấn đề như chuẩn bị công nghệ nội dung, huấn luyện đội ngũ giảng viên và bồi dưỡng học sinh, sinh viên những kỹ năng, văn hóa cần thiết khi được nối mạng.
Bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng tốt, phải chú trọng giáo dục văn hóa mạng và xây dựng tài nguyên học tập trên mạng. Nếu không, việc kết nối sẽ gây ra lãng phí, không phát huy được hiệu quả. Xin nhắc lại: Mạng chỉ là điều kiện để phát triển, không nên xem phát triển mạng là “cây đũa thần” có thể giúp biến đổi giáo dục trong nháy mắt!
Cần phải có kế hoạch triển khai theo một lộ trình hợp lý, đừng làm theo kiểu đồng loạt, đồng khởi. Thứ nhất là không đủ kinh phí, thứ hai là mở mạng ra thì phải có nội dung cho các em khai thác (nếu mở mà không chuẩn bị nội dung thì mở ra để làm gì, dễ khiến các em truy cập vào những nội dung không lành mạnh).
Không phải cứ phát triển mạng, tăng băng thông là thay đổi được mọi thứ. Hay nhất là chuẩn bị kỹ nhiều mặt, để có khả năng nâng cao băng thông đến đâu thì phát huy hiệu quả đến đó.
Làm sao để có căn cứ khoa học?
Một chủ trương đúng đắn phải đi kèm với những kế hoạch và dự án mang tính khoa học cao. Nhiều khi chúng ta có chủ trương duy ý chí, ví dụ nhìn lại chủ trương tin học hóa của ngành giáo dục trong 20 năm, ta có thể thấy thực tế đã diễn ra rất nhiều làn sóng. Đầu tiên là đợt sóng trang bị cho các trường những module (một module gồm năm máy tính + một máy in), rồi đào tạo cấp tốc mấy nghìn giáo viên, rồi chủ trương xây dựng phòng máy mạng cục bộ, và bây giờ là chủ trương kết nối mạng Internet cáp quang.
Bộ GD-ĐT có thuận lợi là có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này, nhưng chính vì thế mà nảy sinh nghịch lý ở chỗ chưa tập trung được ý tưởng, cũng như sự nhất trí cao trong vấn đề tin học hóa.
Lâu nay, việc tập hợp trí tuệ của Bộ là rất hình thức. Những kế hoạch trang bị máy tính, đào tạo giáo viên qua nhiều đợt do đó vẫn chưa đạt được mục tiêu mong muốn. Thiết nghĩ, chủ trương lần này không thể lặp lại như trước. Muốn vậy, Bộ phải thực sự tập hợp được trí tuệ ngay trong ngành mình. Tôi thấy nhiều khi ý tưởng đưa ra rất hay nhưng kế hoạch triển khai thì không được làm một cách khoa học, nên từ chủ trương đến hiện thực là khoảng cách lớn, nhiều khi phá sản.
Thành lập Cục CNTT là điều rất đáng mừng. Từ khi có Cục, cùng với vai trò năng động của cục trưởng, Bộ đã triển khai nhiều việc tích cực. Tuy nhiên, tôi nhận thấy Cục CNTT đôi khi hơi vội vã, vai trò của Cục gần như muốn ôm đồm tất cả, trong khi việc tập hợp trí tuệ các chuyên gia trong ngành lại chưa được quan tâm đúng mức. Tôi đề nghị Cục CNTT làm đúng vai trò đứng ra tập hợp trí tuệ và tham mưu cho Bộ.
Phải tập hợp đội ngũ chuyên gia để làm căn cứ khoa học cho chủ trương này. Những bài học kinh nghiệm quá khứ phải được rút ra. Vấn đề tin học hóa, đã qua ba thời kỳ nhưng chưa thành công như mong muốn, là do chúng ta nôn nóng, cảm tính, duy ý chí, chưa có căn cứ khoa học, cuối cùng dẫn đến “đánh trống bỏ dùi”.
Tôi còn nhớ có lần một đoàn kiểm tra đến thăm một trường vùng sâu, vùng xa thì thấy năm máy tính “trùm mềm”, mua về không dùng đến. Chủ trương mỗi trường một module như thế là ấu trĩ. Nếu không cẩn thận, chủ trương nối mạng cũng sẽ như thế. Chúng ta có nhiều bài học “đau đớn” về chuyện này rồi. Phải chọn một số điểm triển khai tốt rồi nhân rộng ra, nếu không sẽ lãng phí, không hiệu quả.
Các trường ĐH, CĐ phải mạnh dạn kết nối, hoàn thiện nhân lực phục vụ cho xã hội ngay. Với trường phổ thông, tôi nghĩ phải có chọn lọc, không cần thiết trường nào cũng phải kết nối băng thông cao.
Phải đáp ứng điều kiện như thế nào mới được kết nối, cũng như phải có tiêu chuẩn, lộ trình để gia nhập vào cộng đồng mạng, chứ không phải ai cũng vào được.
Ví dụ như đào tạo cán bộ quản trị mạng ở trường học hiện nay là chưa có, rồi vấn đề giáo dục văn hóa mạng,... Nên xem các nội dung đó như một số trong các tiêu chuẩn kết nối băng thông cao.
Cần tạo cạnh tranh giữa các ISP
Một vấn đề quan trọng nữa hiện đang thu hút nhiều góp ý là việc Bộ ký kết với Viettel về phát triển mạng giáo dục. Tôi cho rằng Bộ phải huy động tài nguyên của cả nước, không nên để một doanh nghiệp nào “bao sân”, độc quyền. Phải tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISP) cùng tham gia.
Quy luật thị trường rất khắc nghiệt. Không có nhà đầu tư nào chỉ làm việc miễn phí, không tính đến lợi nhuận. Bộ cần đưa ra chính sách, điều kiện để tạo cạnh tranh giữa các ISP, chứ như hiện nay chọn ngay Viettel rồi đề nghị xuống các cơ sở bên dưới như thế là không đúng (kể cả với Luật chống cạnh tranh)!
Ngay trong bảng giá của Viettel đưa ra, tôi thấy còn nhiều chỗ rất mơ hồ. Viettel không đưa ra cam kết băng thông tối thiểu là bao nhiêu, thời hạn áp dụng, rồi tổng băng thông có đáp ứng cho mấy chục cơ sở khai thác cùng lúc hay không… Nếu không, rồi thì cũng sẽ lâm vào tình trạng thường xuyên rớt mạng, gây khó khăn cho công tác đào tạo, kể cả cho việc đào tạo trực tuyến.
Dĩ nhiên, nếu Viettel đảm bảo đúng vấn đề băng thông, với giá ưu đãi như thế thì đây là một ý hay. Nếu được như thế, theo mô hình mới này thì trường ĐHCN chúng tôi sẽ tiết kiệm được đến 50% chi phí!
Những ý kiến chia sẻ trên đây, rất mong Cục CNTT, Bộ GD-ĐT xem xét để chủ trương kết nối Internet cáp quang được triển khai một cách hiệu quả, tạo hiệu ứng tốt trong ngành giáo dục, nâng cao thực sự chất lượng dạy và học.
HOÀNG VĂN KIẾM (Theo e-CHIP)
(Theo TTO)