Internet
gần như đã trở thành thiên đường cho những người mê công nghệ, là nơi
ẩn náu cho game thủ và là nguồn lợi nhuận của doanh nhân. Nhưng mạng
thông tin toàn cầu cũng là sân chơi của những tay hacker quái quỷ.
Lịch sử 20 năm của Internet có riêng một mảng đậm
màu vì dấu ấn các vụ phá hoại. Khi liên kết lại với nhau, chỉ một khe
hở phần mềm bị khai thác, cả mạng lưới hàng triệu máy tính rúng động và
số tiền thiệt hại lên đến hàng tỉ USD. Dưới đây là 10 loại sâu (worm)
và virus gây ra những vụ phá hoại tồi tệ nhất trong lịch sử Internet.
1. Jerusalem (tên khác: BlackBox)
 |
Kích hoạt virus vào Thứ Sáu ngày 13 trở thành "mốt" một thời của hacker. |
Được phát hiện vào năm 1987, Jerusalem là một trong
những virus máy tính đầu tiên trên thế giới và được đặt tên theo thành
phố mà nó bị phát hiện lần đầu tiên.
Virus Jerusalem nổi tiếng vì sự phá hoại tàn khốc
lạnh lùng: Xóa sạch bách dữ liệu và file chương trình nếu được thực thi
vào Thứ Sáu ngày 13.
Đây là loại virus lây lan trên máy tính chạy hệ điều
hành MS-DOS - hệ điều hành phổ biến nhất trên PC trước khi Windows 95
trở thành một hệ điều hành thực thụ. Khi bị lây nhiễm, tất cả các file
chương trình (có phần mở rộng là .EXE hoặc .COM) đều tăng kích thước
file vì bị chèn thêm mã độc, trừ file COMMAND.COM chứa tập lệnh nội trú
của DOS.
Jerusalem sau đó còn "đẻ" ra thêm nhiều biến thể của
nó như virus Suriv chuyên xóa file dữ liệu trên máy vào những thời điểm
nhất định trong năm (thường là Ngày nói dối 1/4 hoặc Thứ Sáu ngày 13).
Bằng thuật toán lẩn trốn khôn khéo và sự "ngây thơ"
của người dùng trước kiểu tấn công này, "dòng họ" Jerusalem trở thành
virus phổ biến nhất thời kỳ đó. Sự phá hoại của chúng dần giảm xuống
khi Windows dần dần phổ biến hơn.
2. Michelangelo
 |
Ngày 6/3/1992, một năm sau khi virus Michelangelo bị phát hiện, nỗi sợ hãi vẫn khiến mọi người đổ xô đi mua phần mềm diệt virus. |
Năm 1991, hàng ngàn máy tính chạy MS-DOS ngừng hoạt
động vì một loại virus tự động kích hoạt vào đúng ngày sinh nhật của
nhà điêu khắc lừng danh Michelangelo - 6/3. Vào đúng ngày này, virus sẽ
ghi đè dữ liệu lên toàn bộ ổ cứng, đồng thời thay đổi cả Master Boot
Record (MBR - vùng ghi dữ liệu để nhận dạng và khởi động trên ổ cứng)
để ổ cứng không thể phục hồi bằng những công cụ thông thường như lệnh
FDisk hay Format.
Sau ngày 6/3/1991, khoảng 10 - 20 nghìn máy tính
được báo cáo dữ liệu bị phá hủy. Tuy nhiên, con số thực tế cao gấp
nhiều lần số đó. Nguyên nhân vì hệ thống mạng thông tin tại thời điểm
này chưa phổ biến như hiện nay.
Những tác hại do virus Michelangelo gây ra là lời
cảnh báo hữu hiệu đối với những người dùng máy tính. Một năm sau đó,
ngày 6/3/1992, doanh số bán phần mềm diệt virus tăng đột biến. Nhiều
người lần đầu đặt mua loại phần mềm này chỉ vì không muốn ổ cứng của
mình trở thành "cục chặn giấy công nghệ cao".
3. Storm Worm:
Sâu Storm là một trong những phần mềm độc hại "trẻ"
nhất trong danh sách này vì mới "chào đời" giữa tháng 1/2007. Tên của
nó được đặt là Storm (cơn bão) vì chúng lây lan qua bức email mang tiêu
đề "230 người chết khi cơn bão đổ bộ vào Châu Âu", đánh vào tậm lý
người dùng máy tính bởi cơn bão Kyrill tồi tệ đang hoành hành ở châu
lục này.
 |
Mong muốn chia sẻ hậu quả của cơn bão Kyrill bị lợi dụng để trói máy tính vào mạng botnet. |
Mặc dù bị phát hiện ngay sau khi phát tán 3 ngày, sâu Storm đã kịp
kiểm soát 8% số máy tính lây nhiễm. Tất cả bị "trói" vào một mạng máy
tính ma (botnet), trở thành công cụ để ăn trộm thông tin máy chủ, tấn
công từ chối dịch vụ (DDOS) các website và liên tục gửi email tới các
địa chỉ khác.
Storm nổi tiếng vì sự đeo bám "dai dẳng" vào hệ
thống và rất khó gỡ bỏ. Một khi đã trở thành mắt xích trong mạng
botnet, máy tính liên tục bị cập nhật bởi những kỹ thuật DNS thay đổi
không ngừng. Vì thế, máy tính bị "trói" vào mạng và khó có thể gỡ bỏ
hoàn toàn.
Tính đến tháng 9/2007, khoảng 1-10 triệu máy tính
trên toàn thế giới bị trói vào các mạng botnet. Chúng bị lây nhiễm từ 1
trong số 1,2 tỷ email giả mạo gửi đi từ các máy tính bị nhiễm khác.
4. Sobig:
Năm 2003, Sobig và những biến thể thay đổi chiêu
thức tấn công tạo nên một cơn bão mới. Thay vì đính kèm file thực thi
dạng .EXE, mã độc của Sobig lại được đính kèm trong email với file có
đuôi .PIF hoặc .SCR tưởng như vô hại. Nhưng chỉ cần click chuột vào là
máy tính lập tức bị nhiễm, Sobig tự kích hoạt dịch vụ gửi mail SMTP của
nó, lấy địa chỉ trong danh bạ và lại tiếp tục phát tán thư giả mạo.
May mắn là Sobig và biến thể quá phụ thuộc vào các
website để chạy các kịch bản liên quan. Vì thế chúng sơm bị loại bỏ.
Tuy nhiên, thống kê sau "thảm họa", Sobig cũng kịp "xử lý" 500.000 máy
tính trên toàn cầu với tổn thất lên tới 1 tỷ USD.
5. MSBlast (Blaster):
Tháng 7/2003, Microsoft thông báo một lỗ hổng bảo
mật của Windows. Chỉ một tháng sau đó, lổ hổng này bị khai thác. Sâu
MSBlast có tên gọi theo tác giả viết ra nó đã lang thang khắp các máy
tính toàn cầu với thông điệp gửi Bill Gates, Chủ tịch hãng phần mềm
Microsoft: "billy gates đã làm điều này. Hãy dừng kiếm tiền lại mà sửa
máy tính đi" (billy gates why do you make this possible? Stop making
money and fix your software!!)
 |
Tự định nghĩa giao thức truyền file có tên TFTP, sâu Blaster tự do hoành hành trên 25 triệu máy tính chạy Windows trên toàn cầu. |
Khi lây nhiễm, MSBlast tự động cài đặt một máy chủ
với giao thức TFTP (Trivial File Transfer Protocol - Giao thức truyền
file ... tầm thường) và tải mã độc xuống máy này.
Chỉ trong vòng vài giờ, khoảng 7.000 máy tính bị lây
nhiễm và sâu MSBlast cũng bị phát hiện. Microsoft thì làm việc ngày đêm
để đưa ra bộ gỡ bỏ sâu MSBlast (Windows Blaster Worm Removal Tool) vào
tháng 1/2004. Đến khi đó, khoảng 25 triệu máy tính toàn cầu được thông
báo đã "dính" sâu MSBlast.
Không thấy đề cập đến số phận chủ nhân của sâu
MSBlast, nhưng chàng thanh niên 19 tuổi Jeffrey Lee Parson (Mỹ) đã phải
ngồi tủ 18 tháng và 10 tháng quản thúc địa phương vì phát tán những
biến thể của MSBlast tới khoảng 50.000 máy tính khác.
Hưng Hải tổng hợp. (Theo VietNamNet)
|