Các
quốc gia đang phát triển đều có những giải pháp để xoá bỏ khoảng cách
số, tạo cơ hội cho người dân nông thôn tiếp cận với Internet. Ấn Độ có xe ba gác đưa Internet về làng, Campuchia có xe hai bánh vượt khoảng cách số,
chở Internet đến với nông dân... Còn tại Việt Nam, không ồn ào và rầm
rộ, nhưng các điểm Bưu điện văn hoá xã cũng đã len lỏi tới từng làng
bản xa xôi, mang theo báo chí, thông tin thời sự, đường điện thoại, và
gần nhất là đường truyền Internet tới mọi người nông dân Việt Nam.

Trong cuộc bàn tròn trực tuyến trên VietNamNet về chủ đề Internet và thế hệ trẻ, nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung Tá đã nhấn mạnh về thành quả sau 10 năm Internet có mặt tại Việt Nam:
"Đến hôm nay, năm
2007, chúng ta đã có 18,64% dân số sử dụng Internet. Internet của chúng
ta không chỉ dùng ở Viện nghiên cứu, trường ĐH, mà đã vào 100% các
doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước, các bệnh viện TW, 98% các
trường THPT, 50% các trường THCS và đang len lỏi dần xuống vùng nông
thôn qua các điểm Bưu điện VH xã, để người nông dân, các cháu thanh
thiếu niên có thể học tập, làm quen dần. Qua đó, chính những cháu học
sinh sau này sẽ là người giáo viên hỗ trợ chúng ta phổ cập khả năng ứng
dụng Internet trên toàn quốc."
"...Chúng ta có thể
tự hào rằng tốc độ phát triển Internet và mật độ sử dụng của Việt Nam
đã gấp đôi mức bình quân trong khu vực Đông Nam Á, vượt mức bình quân
của thế giới. Nếu xét về số lượng người sử dụng Internet, chúng ta xếp
thứ 17 trong số 20 nước có dân số Internet đông nhất. Về mật độ sử
dụng, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan, Trung Quốc, Philippines,
Indonesia..."
"Có thể nói với tiềm
năng của tỉ lệ dân số trẻ, sự quan tâm tới GD-ĐT của Việt Nam để nâng
cao tri thức của thanh thiếu niên, nỗ lực thu hẹp khoảng cách số giữa
nông thôn và thành thị, các doanh nghiệp cũng nỗ lực tiếp cận công nghệ
mới, phục vụ hoạt động kinh doanh của mình... Internet Việt Nam 10 năm
qua đã rất khởi sắc."
Từ những đánh giá của
G.S. TSKH Đỗ Trung Tá, chúng ta có thể thấy rằng dù xuất phát muộn hơn,
nhưng Internet tại Việt Nam đã có những bước phát triển ấn tượng hơn
hẳn so với các nước trong khu vực, và đang tiếp tục được phổ cập tới
mọi người dân với tốc độ nhanh chóng, nhờ vào mạng lưới hơn 8000 điểm
Bưu điện VH xã và các chương trình đưa Internet về nông thôn của Đảng,
Chính phủ và TW Đoàn thanh niên.
Xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội bằng Internet

|
Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: "Lấy CNTT và Internet làm công cụ xóa đói giảm nghèo Ảnh: VNN |
Cũng
tại cuộc Bàn tròn trực tuyến nhân dịp 10 năm Internet Việt Nam nói
trên, trả lời câu hỏi của nhà báo Nguyễn Anh Tuấn về viễn cảnh của
Internet Việt Nam 10 năm và 20 năm tới, nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT đã có
những đánh giá đầy lạc quan:
"Chỉ trong năm 2006
thôi, đã có thể nhận thấy quá trình hội nhập và cam kết trong WTO của
ICT Việt Nam là tương đối tốt đẹp. Trong kế hoạch giai đoạn 2010 -
2020, Bộ BCVT đã thông qua chiến lược "Cất cánh" với những chỉ tiêu hết
sức cụ thể và đã được Thủ tướng phê duyệt.
Theo kế hoạch này,
đến năm 2020, bức tranh ICT của Việt Nam sẽ như một nước tiên tiến, với
sự hội tụ mạnh mẽ của các dịch vụ viễn thông, Internet và truyền thông,
dựa trên nền tảng công nghệ số. Chúng ta sẽ được chứng kiến sự hội tụ
mạnh mẽ của các dịch vụ cố định và di động. Mọi người sẽ được hưởng thụ
lợi ích của CNTT khi chúng ta thực sự tham gia vào nền kinh tế mạng.
Mọi người nông dân lúc đó sẽ chào bán các sản phẩm của mình qua Internet.
Một cán bộ có thể sử dụng máy tính để trở thành giám đốc công ty du
lịch. Một sinh viên tốt nghiệp với máy tính nối mạng và kiến thức được
đào tạo sẽ tự tạo được cho mình một sự nghiệp riêng.
Những khởi nghiệp nhờ Internet như vậy sẽ tạo ra thêm rất nhiều việc làm, cho phép kinh doanh ngay cả ở nông thôn chứ không chỉ thành thị, thậm chí ngay khi đang đi trên đường.
Với hơn 8000 điểm
BĐVHX được cung cấp mọi dịch vụ ICT, điện thoại IP giá rẻ sẽ tràn ngập
mọi vùng nông thôn, làng xã. Có thể nói xã hội thông tin lúc đó sẽ cung
cấp thông tin ở mọi lúc mọi nơi, làm cho người dân cảm thấy CNTT đúng
là thành quả của sự nghiệp đổi mới, giúp người dân hưởng lợi rất nhiều.
Người dân nông thôn qua tìm tòi sử dụng cũng sẽ có đóng góp phát triển, lấy CNTT và Internet làm công cụ xoá đói giảm nghèo,
nâng cao dân trí. Việt Nam sẽ nhanh chóng sánh vai với các nước phát
triển về CNTT, đưa CNTT và Internet phổ thông trên khắp đất nước".
Về
viễn cảnh của mô hình các điểm Bưu điện VH xã trong 10-20 năm nữa,
G.S., TSKH Đỗ Trung Tá cũng đưa ra những kỳ vọng mà mình đã ấp ủ từ bao
lâu nay:
"Hiện các điểm BĐVH
xã hiện rất gần gũi với người dân, đến mức chân đất cũng đi vào được,
rất thoải mái. Từ anh bộ đội cho đến cháu thiếu nhi, người trong làng
lẫn ngoài làng... ai cũng có thể vào đọc thông tin, gọi điện hay sử dụng Internet. Nhiều người đã nói BĐVHX là "không thể thiếu được" trong cuộc sống thường ngày của họ.
Ví von một chút, vai trò của BĐVHX gần giống như đình làng ngày xưa vậy.
Thậm chí, tôi còn muốn BĐVHX biến thành những trung tâm kinh tế thương
mại nhỏ của làng. Người dân có thể ra đó bán hàng, gửi hàng, mua
hàng... tạo điều kiện cho dịch vụ của làng đó phát triển. Hiện nhiều
người dân cũng đã sử dụng điểm BĐVHX để làm ra tiền rồi.
Tôi muốn các điểm này mang tính dịch vụ, mang tính kinh tế, giao dịch cao hơn nữa cho người sử dụng. Có thể các điểm này sẽ trở thành trung tâm ICT cộng đồng. Mỗi điểm VH xã không chỉ là 1 máy điện thoại, 1 vài cái máy vi tính mà phải là nhiều máy điện thoại, nhiều máy tính.
Quan
trọng nhất là trang thiết bị tại đây phải do chúng ta tự chế tạo, từ
máy tính giá rẻ, chuyển mạch mềm, điện thoại IP... ở quy mô nhỏ ta hoàn
toàn có thể làm "ngon". Nói tóm lại, Việt Nam mình phải làm sao đưa
được nội lực của mình vào trong đó."
"Phải đưa Internet đến được 60-70% dân số!"
Trong một lần trả lời phỏng vấn VietNamNet
nhân dịp Xuân Đinh Hợi 2007, nguyên Bộ Trưởng Bộ BCVT lúc đó đã đánh
giá về ý nghĩa của việc đưa Internet về vùng sâu vùng xa, cho người dân
nông thôn có cơ hội tiếp nhận tri thức mới:
 |
"...phải nói Internet đã về làng thật, và người nông dân bây giờ đi làm đã có người mang máy di động thật." |
"Khoảng
năm 2004, khi lãnh đạo Bộ BCVT quyết định không còn độc quyền công ty
và cạnh tranh trên tất cả các loại hình dịch vụ, tôi cũng đã nảy ra một
ý kiến và nói với anh chị em là liệu ta có thể đưa Internet về làng, và để người nông dân có thể có "máy di động giắt cạp quần hay không?".
Tập trung suy nghĩ
của anh em về hai lĩnh vực này, lúc đó có người nói là: "Thủ trưởng hơi
vội, hơi "bốc" trong chuyện này". Nhưng bây giờ nhìn lại, thì phải nói Internet đã về làng thật, và người nông dân bây giờ đi làm đã có người mang máy di động thật.
Như mới đây, di động còn cung cấp cả Internet nữa, thì rõ ràng điều
kiện để Internet về làng, Internet phổ cập đến vùng sâu vùng xa, biên
giới hải đảo và bưu điện các xã là đương nhiên, là chuyện rất bình
thường chứ không phải điều gì quá khó khăn so với khả năng của chúng ta.
Chính vì vậy, chúng
ta đã nghe rất nhiều thông tin cảm động, ví dụ như người nông dân bán
cá, bán bưởi và những nông sản của mình qua mạng. Và khi mạng lưới Internet bị trục trặc
thì người nông dân cũng phản hồi, kêu cứu rất quyết liệt. Nghĩa là, họ
đã làm quen với những phương tiện hiện đại này và cảm thấy không thể
thiếu được.
Như vậy là chúng ta đã đi quá nhanh trong vấn đề Internet.
Báo Bưu điện Băng Cốc (Bangkok Post) có nói rằng, năm 2006, Việt Nam đã
thắng Thái Lan số lượng người sử dụng Internet nhiều hơn, và thu hút
được Intel đầu tư xây dựng nhà máy chip.
Có thể nói dân trí của người Việt Nam có khả năng tương thích với công nghệ mới rất tốt,
và đây là một điều kiện thuận lợi. Chỉ trong một thời gian ngắn nữa
thôi, tôi nghĩ chúng ta có thể tăng số người phổ cập Internet lên
khoảng 50% dân số. Nếu để ý rằng chúng ta có tới 60-70% dân số là lớp
trẻ, thì việc đưa Internet đến 60-70% dân số có lẽ cũng là việc không khó.
B.M (tổng hợp)
(Theo TuanVietNamNet)
Trong lần đến thăm Toà soạn báo VietNamNet mới
đây, nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung Tá đã chia sẻ kỷ niệm về quá
trình đưa Internet về nông thôn bằng hệ thống các điểm BĐVH xã:
"Từ thành công của việc thuyết phục Bộ chính trị
đồng ý đưa Internet vào VN hồi tháng 12/1997, tôi ấp ủ việc đưa cả
Internet về nông thôn, bằng việc triển khai các điểm BĐVHX.
Và mong muốn đó của tôi được Quốc hội ủng hộ. Đầu
tiên, Quốc hội (ông Vũ Mão, chánh VP Quốc hội) duyệt cho lấy thử nghiệm
1 ngôi nhà nhỏ đặt trong khuôn viên Quốc hội, hoạt động gần giống như
mô hình điểm BĐVHX bây giờ, cũng lấy năng lượng mặt trời để chạy truyền
hình...
Được Quốc hội ủng hộ, tôi lại muốn nhân rộng cái
điểm đó lên, "tràn lan" thành các điểm BĐVHX bây giờ. Lúc đó, nhiều
người, thậm chí cả những đồng nghiệp chuyên ngành cũng nói với tôi:
"Tưởng làm thử nghiệm vài cái thôi, sao đã vội tràn lan thế?"
Lúc đó, mỗi điểm BĐVHX chỉ có được doanh thu
khoảng 200.000đ/ 1 ngày, chủ yếu chỉ để cho người dân tiếp cận với máy
tính, báo chí, sách vở, mở mang kiến thức...VNPT lúc đó chịu trách
nhiệm làm công ích.
Nhưng đến bây giờ, toàn quốc đã có hơn 8.000 điểm
BĐVHX, doanh thu trung bình của mỗi điểm đạt 2.600.000 đồng/1tháng. Vậy
ước chừng, một tháng toàn quốc có khoảng 20 tỷ doanh thu tại các điểm
BĐVHX.
Thử tính, nếu chúng ta lập ra các công ty trên
toàn quốc quản lý các điểm BĐVHX đó, chịu trách nhiệm kinh doanh mọi
loại dịch vụ liên quan đến bưu chính, viễn thông, Internet...., thành
một mô hình phân phối dịch vụ, phát triển dịch vụ, thì các điểm BĐVHX
đó sẽ thực sự trở thành một "pháo đài xã" để đưa Internet tới mọi người
dân, có đúng như vậy không?
|