|
TS Mai Liêm Trực. |
|
Quá
trình thuyết phục mở Internet ở Việt Nam được xem như cuộc đấu tranh
đầy những trăn trở, lo âu giữa tư duy cũ và tư duy đổi mới. Cuối cùng,
Việt Nam cũng bước kịp lên “chuyến tàu xa lộ thông tin” toàn cầu.
Chúng
tôi đã có cuộc trò chuyện với TS Mai Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng
Tổng cục Bưu điện, người vừa được CLB các nhà báo CNTT bình chọn là
người có ảnh hưởng nhất đối với Internet Việt Nam để tái hiện về thời
kỳ thuyết phục mở Internet ở nước ta 10 năm trước đây.
“Tín chấp” chức vụ thuyết phục mở Internet
Nếu ai đó cho rằng, ông là người “mở đường” cho Internet vào Việt Nam, ông có đồng ý?
Thật
ra có rất nhiều người tham gia vào quá trình đưa Internet vào Việt nam.
Thời đó, cũng có nhiều người mong muốn đưa Internet vào Việt Nam sớm
hơn. Là người trong cuộc, tôi đánh giá chúng ta không thể sớm hơn được.
May mắn là năm 1997, chúng ta cho mở Internet mà không bị chậm đi mấy
năm. Nếu chậm mở Internet, đương nhiên chúng ta sẽ bị lạc hậu và đất
nước sẽ tụt hậu. Tôi cho rằng việc đưa Internet vào Việt Nam thể hiện
quyết tâm chính trị của lãnh đạo cao nhất trong vấn đề đổi mới và chuẩn
bị hội nhập quốc tế.
Có thông tin nói rằng thời đó để thuyết phục mở Internet, ông đã phải “tín chấp” chiếc ghế Tổng cục trưởng của mình?
Lúc
đó, thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về Internet Việt Nam gồm: Phó Thủ
tướng Phạm Gia Khiêm; tôi làm Tổng cục trưởng Tổng Cục Bưu điện, anh
Nguyễn Khánh Toàn - Thứ trưởng Bộ Công an, anh Chu Hảo - Thứ trưởng Bộ
KHCN. Chúng tôi đã báo cáo trong cuộc họp với Thường trực Bộ Chính trị.
Thường vụ Bộ Chính trị đã đặt ra câu hỏi nếu mở ra có chặn được
hết những thông tin độc hại trên Internet hay không? Khi đó, anh Khánh
Toàn có nói về văn bản quản lý Internet rất chặt chẽ. Thường vụ Bộ
Chính trị hỏi tiếp, nhưng trên thực tế thì sao? Lúc đó, tôi đứng lên
báo cáo rằng đã có văn bản và thông tư liên tịch giữa các bộ như: Tổng
cục Bưu điện, Bộ Công an và Bộ Văn Hoá Thông tin rất chặt chẽ. Nhưng
trong triển khai, thực tế điều kiện kỹ thuật nghiệp vụ sẽ không thể nào
chặn được hết những thông tin độc hại trên Internet. Tuy nhiên, chúng
ta sẽ hạn chế được đến mức thấp nhất các thông tin độc hại này.
Sau
đó thường trực Bộ Chính trị đã đồng ý cho mở Internet và yêu cầu chúng
tôi trực tiếp báo cáo với Thủ tướng Chính phủ. Tất cả anh em chúng tôi
kéo đến nhà riêng Thủ tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng đã đồng ý cho mở
Internet. Tuy nhiên, khi ra về thì Thủ tướng có vỗ vai tôi nói: “Cố
gắng quản lý cho tốt chứ nếu mở ra mà phải đóng lại thì không biết ăn
nói với thế giới ra sao”.
Thời đó, tôi thấm nhuần câu nói của
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt là: “Nếu làm việc mà cứ cúi nhìn vào “chân
ghế” của mình thì chẳng làm được việc gì cả”. Tôi cũng đã xác định, nếu
mở Internet mà có việc gì xảy ra, mình sẽ phải là người lãnh trách
nhiệm đầu tiên và phải sẵn sàng chấp nhận những trách nhiệm này.
Thời
đó, lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước quyết định cho mở Internet không
phải chỉ nghe về những cái lợi của Internet và những giải pháp ngăn
chặn tiêu cực của nó, mà quan trọng đó là niềm tin vào những người thực
thi chủ trương này. Tôi cũng may mắn là có sự tin cậy nên đã dám nói
một cách mạnh mẽ và tự tin để thuyết phục mở Internet mà không sự có sự
hiểu lầm.
Khi ông “tín chấp” để thuyết phục cho mở Internet, có lúc nào ông có lo lắng đến yếu tố rủi ro hay không?
Tôi
cho rằng người lãnh đạo thì chỉ cần thấy đúng khoảng trên 50% người
đồng ý là phải quyết, chứ để mọi người nhất trí thì mới quyết thì không
cần đến lãnh đạo nữa. Cho nên, bất cứ một quyết định gì cũng phải chấp
nhận đọ rủi ro của nó. Lúc đó, về mặt cá nhân tôi không có gì phải lo
lắng cả. Những tôi có lo lắng bởi những ảnh hưởng không tốt của
Internet đối với xác hội mà mình chưa thể lường trước hết được.
Lúc
đó ông tin và “bức tường lửa” chặn các thông tin độc hại bao nhiều phần
trăm, và tin vào người sử dụng bao nhiều phần trăm? Khi đó, “bức tường
lửa” có là giải pháp về tâm lý để ông thuyết phục mở Internet?
Thời
điểm đó, tôi đã phát biểu nhiều trên báo chí, về mặt kỹ thuật nghiệp vụ
thì “bức tường lửa” không phải là mục đích chính của quản lý, nên không
ảo tưởng rằng có thể ngăn chặn được tất cả. Thế nhưng, nhiều người vẫn
nghĩ là “bức tường lửa” có thể ngăn chặn những thông tin độc hại.
Khi
mới mở, số thuê bao Internet còn ít, nên “bức tường lửa” có tác dụng
nhất định. Tuy nhiên, chúng tôi không sử dụng “bức tường lửa” như là
tấm bình phong phóng đại, tô màu để thuyết phục mở Internet. Tôi đã
phát biểu rằng, muốn quản lý được Internet phải có 3 yếu tố. Thứ nhất,
bằng yếu tố kỹ thuật là “bức tường lửa” và các phần mềm khác. Thứ hai,
phải quản lý bằng hành chính thông qua các văn bản thể lệ nghiệp vụ
khai thác. Thứ ba, quan trọng nhất là vấn đề dân trí.
Áp lực
 | 21,24% dân số Việt Nam sử dụng Internet
Theo
Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), tính đến cuối tháng 11/2007, đã có
5.013.156 thuê bao Internet với 17.872.165 người sử dụng, chiếm 21,24%
dân số. Số thuê bao Internet băng rộng đã đạt con số 1.157.930. Số
liệu thống kê chính thức của VNNIC cho thấy tổng băng thông kênh kết
nối quốc tế của Việt Nam là 10.508 Mbps; tổng băng thông kênh kết nối
trong nước là 25.412 Mbps. Tổng lưu lượng trao đổi qua trạm trung
chuyển VNIX đạt 12761309 G. Đã có 54.739 tên miền .vn được cấp phát. Cho
đến thời điểm này, có 7 doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ
Internet, trong đó Tập đoàn BC&VT Việt Nam, chiếm trên 54% thị
phần, Viettel (15,66% thị phần); FPT (17,25%); SPT (3,65%); OCI
(2,74%); Netnam (1,51%); EVNTelecom (4,84%). | Năm
1997, VNPT vẫn độc quyền và có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với Chính phủ
cũng như đối với xã hội. Vậy khi Tổng cục Bưu điện cho mở thị trường
Internet, ông có bị “áp lực” gì không? Tại sao lĩnh vực Internet lại
được chọn làm tiên phong cho việc mở cửa thị trường thời đó?
Chủ
trương của Chính phủ mở cửa thị trường nói chung và thị trường viễn
thông nói riêng đã có từ năm 1995. Nhưng suốt 2 năm, việc triển khai
chủ trường này rất khó khăn, nhưng Tổng cục Bưu điện rất quyết tâm mở
cửa thị trường này. Đối với Internet có những thuận lợi hơn viễn thông
do yêu cầu bức thiết phải mở cửa của xã hội. Vả lại, thời kỳ đó chứa có
bất cứ một doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực này.
Mặc dù
VNPT có mạng lưới đã được số hoá và sẵn sàng hạ tầng để phát triển
Internet, nhưng những lực lượng là giới khoa học, nghiên cứu lại tham
gia mạnh mẽ nhất về thử nghiệm công nghệ để mở Internet. Internet khác
ở viễn thông là chỉ phức tạp về vấn đề quản lý dịch vụ và nội dung
thông tin, còn về kỹ thuật không quá phức tạp, đầu tư không nhiều nên
nhiều doanh nghiệp có thể tham gia cung cấp dịch vụ này. Việc Tổng cục
Bưu điện có bị áp lực gì hay không khi mở Internet? Tôi phải khẳng định
là có, nhưng không nhiều. Lúc đó tôi phải dùng Ban Điều phối Quốc gia
về Internet để Tổng cục Bưu điện cùng một ngày cho cả 4 nhà cung cấp là
VNPT, FPT, SPT và NetNam hoạt động.
Thời đó cũng có ý kiến phản đối đưa Internet vào Việt Nam. Vậy ý kiến này có gây áp lực lớn cho các ông hay không?
Thật
ra lúc đó ý kiến phản đối việc đưa Internet vào Việt Nam cũng có, nhưng
không nhiều, nhưng lại có nhiều ý kiến lo ngại kể cả ở lãnh đạo cấp
cao. Ai cũng nghĩ Internet sẽ vào Việt Nam, nhưng có điều đưa sớm hơn
hoặc chậm hơn mà thôi. Vì vậy, vấn đề ở chỗ liệu chúng ta có mất cơ hội
lần nữa hay không. Chúng tôi cảm nhận Internet có nguy cơ chậm được mở
và nếu cho mở thì sẽ bị nhiều yếu tố hạn chế nên sẽ ảnh hưởng đến tốc
độ phát triển.
Vì vậy, chúng tôi đã phải thuyết phục mở càng sớm
càng tốt, thậm chí tạm thời chấp nhận cả những chỉ đạo mà mình không
hài lòng, để mở Internet rồi tính tiếp. Vì vậy, khi làm Nghị định 21 về
quản lý Internet có rất nhiều tranh cãi. Cuối cùng Thủ tướng Võ Văn
Kiệt cũng sốt ruột cho việc đổi mới nên đã phải quyết định đây là nghị
định tạm thời về quản lý Internet để nếu có gì thì tiếp tục điều chỉnh.
Bây giờ chúng ta xem lại nghị định này cũng thấy nhiều quan điểm quản
lý rất kỳ cục như: Các cơ quan Đảng và lực lượng vũ trang không được
kết nối Internet. Sau đó, chúng ta tiếp tục chứng minh vai trò và hiệu
của Internet và tiếp tục thuyết phục cho ra Nghị định 55. Tôi cho rằng,
nếu thời đó chúng ta chậm mở Internet 3-4 năm nữa không biết Việt Nam
sẽ lạc hậu đến mức nào.
Sau 10 năm phát triển Internet còn có điều gì làm ông còn băn khoăn theo kiểu “giá như” hay không? Những
gì mà Tổng cục Bưu điện thời đó đã làm là hết sức mình, mặc dù có rất
nhiều khó khăn. Lúc đó mở cửa Internet cũng là một bước để Tổng cục mở
tiếp thị trường viễn thông. Anh em chúng tôi bây giờ không còn băn
khoăn gì về chuyện thời đó đã không làm hết mức để phát triển Internet.
Đó là cuộc vật lộn với những khó khăn mà trước mắt là khó khăn về nhận
thức và tầm nhìn có nguy cơ hạn chế sự phát triển không chỉ riêng về
Internet.
Cảm ơn ông!
(Theo Nhật Minh - TPO) (Theo VnMedia)
|