- Trong xu thế hội tụ viễn thông, CNTT và truyền hình, các dịch vụ
IPTV, WiMax và 3G sẽ được phát triển bùng nổ trong tương lai gần tại
Việt Nam. Đánh giá được đưa ra trong Hội thảo Cơ hội kinh doanh trong
ngành vô tuyến và di động tại Việt Nam thời hội nhập, một hoạt động của
VietnamComm 2007, sáng ngày 20/9.
 |
Những dịch vụ mới đưa ra sẽ tạo nhu cầu mới, tạo lực đẩy cho thị trường CNTT-VT tại Việt Nam. Ảnh: Hưng Hải. |
Tại hội thảo, chuyên gia từ nhiều
hãng công nghệ hàng đầu thế giới như NTT DoCoMo, Cisco, Qualcomm,
Orange (France Telecom), ZTE, ... trao đổi trực tiếp với đại diện Bộ
TT-TT Việt Nam, Lào, Campuchia cùng các doanh nghiệp viễn thông tại
Việt Nam. Nội dung chủ yếu xoay quanh những kinh nghiệm trong phát
triển kinh doanh, ứng dụng công nghệ và lộ trình phát triển ngành
CNTT-VT trong thời kỳ hội nhập.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thị
trường viễn thông tại Việt Nam rất hấp dẫn, được ước tính khoảng 4 tỷ
USD và mức doanh thu tăng trưởng tới 10% mỗi năm. Với 8 nhà cung cấp
dịch vụ viễn thông, Việt Nam hiện có có khoảng 10 triệu thuê bao điện
thoại cố định, 20 triệu thuê bao điện thoại di động, 1 triệu thuê bao
ADSL và tốc độ thị trường máy tính - CNTT luôn ở mức tăng trưởng cao
20% mỗi năm. Sự phát triển năng động của thị trường mở ra những cơ hội
kinh doanh mới. Tuy nhiên, kinh doanh thời điểm hiện tại không nằm ở
bản thân nhu cầu hiện có của khác hàng. Thay vào đó, chính những dịch
vụ do nhà cung cấp đưa ra sẽ tạo ra những nhu cầu về trải nghiệm mới.
"Ranh giới giữa CNTT, viễn thông và
truyền thông mờ nhạt dần, một thiết bị có thể kiêm chức năng của nhiều
lĩnh vực", ông Phạm Anh Tuấn, Tổng Thư ký toà soạn báo Điện tử
VietNamNet, nói. "Điện thoại di động đã có thể xem truyền hình, kết nối
Internet, gửi nhận email, máy tính thì xem TV và gọi điện VoIP". Theo
ông Tuấn, chính công nghệ mạng IP đã đẩy mạnh quá trình hội tụ giữa 3
lĩnh vực trên. Trong tương lai gần, mọi dịch vụ đều được tích hợp vào
một đường truyền duy nhất đến hộ gia đình.
"Việc đưa ra những dịch vụ mới sẽ đem
lại trải nghiệm mới cho người dùng và kích thích sự đột phá bất ngờ",
ông Masayuki Hirata, Phó Giám đốc điều hành NTT DoCoMo, nói. "Sự phổ
biến và phong phú nội dung chính sẽ tạo ra nhu cầu mới cho thị trường".
Đó là kinh nghiệm thực tế của NTT
DoCoMo khi triển khai dịch vụ 3G tại Nhật Bản từ năm 2005. Ngay từ đầu,
hãng đã phát triển dịch vụ i-chanel của mình rộng khắp với nhiều nội
dung: game, mobile TV, tin tức, ... Dịch vụ phổ biến tới mức người dùng
có thể test tính năng bất cứ khi nào họ muốn. Vì thế, số thuê bao 3G
tại Nhật Bản lên tới con số 10 triệu chỉ sau 18 tháng và nhân đôi thành
20 triệu 1 năm sau đó. Họ sử dụng điện thoại để kết nối Internet, xem
truyền hình, xem thông tin dự báo thời tiết, chứng khoán nhiều hơn là
gọi và nhắn tin SMS.
Truyền hình trên Internet (IPTV) là
dịch vụ được đánh giá sẽ phát triển bùng nổ bởi hội tụ nhiều điều kiện
cần thiết. Ông Weijun Lee, Phó Giám đốc tập đoàn ZTE - nhà cung cấp
dịch vụ IPTV hàng đầu tại Trung Quốc, nêu ra 3 yếu tố căn bản để phát
triển một dịch vụ IPTV, gồm: đường truyền băng rộng, nội dung đa dạng
và thị trường phát triển năng động. Tại Việt Nam, nền tảng cơ sở hạ
tầng của VNPT đảm bảo được những chương trình IPTV hấp dẫn như Karaoke
trên truyền hình, tương tác trực tiếp với những gì nhìn thấy trên màn
hình TV.
"Lấy ví dụ để các bạn thấy IPTV thay
đổi quan niệm về truyền hình như thế nào. Hãy tưởng tượng các bạn đang
xem chương trình Vietnam Idol rất hấp dẫn. Các bạn không cần soạn tin
hay vào web để bình chọn mà có thể thao tác ngay trên máy thu hình",
ông Weijun Lee nói. "Thực tế tại những nơi đã triển khai IPTV, tỷ lệ
bình chọn như vậy cao hơn hẳn so với qua tin nhắn hoặc các hình thức
khác". Cơ hội kiếm tiền từ IPTV gần như được chia đều cho các bên tham
gia. Theo đó, nhà cung cấp dịch vụ được khoảng 30%, nhà cung cấp nội
dung 40% và 30% còn lại thuộc về các nhà cung cấp dịch vụ gia tăng trên
IPTV.
Ông Trần Minh Tuấn, Phó viện
trưởng Viện chiến lược Bộ TT-TT, cho biết những dự án truyền hình
analog sẽ dần được hạn chế trong thời gian tới. Thay vào đó, truyền
hình KTS sẽ được mở rộng. Đặc biệt khi vệ tinh Vinasat được phóng lên
quỹ đạo trong năm 2008, truyền hình kỹ thuật số sẽ được mở rộng đến
vùng sâu, vùng xa. Việc mở rộng truyền hình thế hệ mới sẽ được phổ biến
bằng quỹ của chính phủ. Từ đó làm cơ sở để kết thúc truyền hình analog
vào năm 2015 - 2020.
Ngoài những nội dung trên, đại diện
các hãng công nghệ cũng giới thiệu, phân tích khả năng ứng dụng và kinh
doanh tại Việt Nam của lĩnh vực thông tin di động, kiến trúc mạng thế
hệ mới (Next Generation Network - NGN).
Hưng Hải (Theo VietNamNet)
|