- "Nếu
chúng ta xác định việc thanh toán đầu tư vào sản phẩm phần mềm thuộc về
“hậu kiểm” theo thực chi, hoàn toàn không dính dáng gì tới vấn đề định
giá thì bài toán sẽ dễ đi rất nhiều", TS. Nguyễn Ái Việt - Phó
Chánh văn phòng Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT, bày tỏ. "Ý tưởng" mà ông
Việt mạnh dạn đưa ra, mà chúng tôi đúc kết và đánh giá là "lời giải cho
bài toán định giá phần mềm", đó là việc cần Xây dựng một cơ sở dữ liệu (database) chung về tất cả các dự án phần mềm (tất nhiên bao gồm chi phí, giá cả cụ thể) đã đầu tư.
Xin chuyển tới quý vị độc giả cuộc trò chuyện của VietnamNet
với TS Việt về chủ đề này. Chúng tôi mong muốn từ đây sẽ nhận được
những ý kiến, quan điểm của quý vị, với tha thiết sẽ góp phần xây dựng
một thị trường phần mềm VN trong sạch, một nền công nghiệp phần mềm VN
phát triển. Xin hãy phản hồi cho VietnamNet theo mẫu ở cuối bài này.
> Định giá phần mềm: "đục nước béo cò"? > Giá phần mềm: Tù mù khó đinh!
- VietnamNet: Ông có nhận định thế nào với loạt bài về định giá phần mềm trong việc triển khai các dự án CNTT mà VietNamNet đã đề cập?
|
TS Nguyễn Ái Việt, Phó Chánh VP BCĐ Quốc gia CNTT. (Ảnh: Lê Anh Dũng) |
- TS Nguyễn Ái Việt: VietNamNet đã
nêu được vấn đề “nóng” hiện nay trong CNTT là định giá phần mềm. Có
được một điểm để tụ hội các quan điểm khác nhau là hết sức cần thiết để
giải quyết vấn đề này. Nói chung mọi ý kiến đều rất bổ ích và đáng trân
trọng. Nói như vậy, không có nghĩa là “ba phải” khi có nhiều ý kiến
dường như rất trái ngược nhau. Nếu chúng ta thống nhất được một cách
nhìn tổng thể thì các ý kiến trái ngược đó chỉ phản ánh các vị trí
khác nhau của người phát biểu. Do đó, sự đa dạng của các ý kiến nói lên
rằng có thể mục tiêu và một số khái niệm trong vấn đề này còn chưa
được xác định rõ ràng.
"Thả" theo giá thị trường: KHÓ!
-
Đã có nhiều phân tích được đưa ra, nhưng vẫn còn nhiều bạn đọc thắc
mắc, định giá phần mềm thực chất để làm gì? Với cách nhìn của Bộ BC-VT,
ông có thể giải thích đơn giản, dễ hiểu về điều này?
- TS Nguyễn Ái Việt:
Đối với nhà sản xuất, định giá sản phẩm nói chung sẽ giúp việc tính
toán chi phí sản xuất và xác định lợi nhuận. Trong trường hợp này, giá
của sản phẩm chính là giá sản xuất. Đối với người mua, giá của sản phẩm chính là giá thị trường, xác định giá là để xây dựng kế hoạch mua sắm.
Hai
loại giá này có thể khác nhau rất xa thông qua một yếu tố thứ ba là thị
trường. Chẳng hạn, giá phát triển một con chip của Intel có thể lên tới
hàng tỷ đô la Mỹ, trong khi đó giá bán trên thị trường chỉ có thể vài
trăm đô la mới có ý nghĩa kinh tế. Nếu trên thị trường chỉ có một người
mua, nhà sản xuất Intel chỉ có thể đầu tư phát triển con chip nếu người
mua thuận trả hàng tỷ đô la cho con chip đó. Và nếu chỉ có một người
bán, thì đúng là khi cần thì người bán “hét” bao nhiêu cũng được.
Có
thể thấy rõ, việc định giá phần mềm có mục đích hoàn toàn khác nhau đối
với các cơ quan nhà nước sử dụng vốn ngân sách xây dựng các ứng dụng
CNTT và các DN phát triển các sản phẩm. Một bên là để quản lý lập kế
hoạch chi tiêu ngân sách, một bên để tính toán lợi nhuận lập kế hoạch
sản xuất. Thực chất đây là hai vấn đề, có phương pháp giải quyết có thể
rất khác nhau, thành thử có các ý kiến trái ngược. Lẫn lộn hai vấn đề
này cũng làm bài toán không rõ ràng, thành thử không có lời giải.
- Thưa ông, có ý kiến cho rằng, giá phần mềm là do thị trường quyết định. Quan điểm của ông thế nào trước ý kiến này?
- TS Nguyễn Ái Việt: Vấn
đề nếu chỉ giản đơn như vậy thì tốt quá. Giá thị trường là một khái
niệm có ý nghĩa và công bằng nếu thị trường có tính cạnh tranh hoàn
hảo: có nhiều lựa chọn về sản phẩm và nhà cung cấp. Rõ ràng thị trường
của Việt Nam chưa phải là hoàn hảo. Với một số phần mềm cao cấp, nếu mở
thầu quốc tế, đương nhiên ta sẽ có giá thị trường hoàn hảo. Tuy nhiên,
thủ tục này phức tạp hơn không thích hợp với các dự án nhỏ. Hơn nữa,
cũng nên có sự quan tâm thích đáng sử dụng lực lượng trong nước khi có
thể để phát triển ngành.
Bên
cạnh đó, có những phần mềm may đo cần phải dự chi trước để phê duyệt
rồi mới đấu thầu được. Trong các ứng dụng CNTT, sử dụng vốn ngân sách,
ranh giới giữa phần mềm hàng hóa và phần mềm “may đo” khó xác định được
rõ ràng. Khi đó, định giá phần mềm giống như sử dụng một cái thước bằng cao su co dãn tùy thích, nên không còn ý nghĩa.
Như
vậy, cần phải làm sao xác định được tách bạch phần mềm hàng hóa và phần
mềm “may đo”. Phần mềm hàng hóa cố nhiên định giá qua thị trường, phần
mềm “may đo” thì áp dụng phương pháp khả thi nào cũng tốt miễn là chi
phí thấp và khả thi trong giai đoạn chuẩn bị dự án.
Hiện
nay, có một số phương pháp đã được đưa vào ISO, có thể tính tương đối
chính xác giá phần mềm sau khi đã có khảo sát và thiết kế chi tiết. Tuy
nhiên, đến giai đoạn này chi phí đã chiếm trên 30% dự án. Như vậy, quá
rủi ro cho nhà tư vấn, không ai có thể đầu tư nổi. Mà ở Việt Nam, chưa
có dự án thì chưa có tiền để khảo sát thiết kế. Hơn nữa, hiện nay chuẩn
bị dự án đã mất hàng năm, kéo dài ra nữa thì thiết kế dự án sẽ trở
thành vô nghĩa vì CNTT thay đổi quá nhanh. Như vậy, cần có một phương
pháp có thể chấp nhận dung sai, nhưng chi phí chuẩn bị dự án dưới 10%.
Nói
chung, giá sản xuất của phần mềm, tuy là một bài toán khó, nhưng có một
số phương pháp tính đã được đưa vào chuẩn ISO. Tất nhiên, các phương
pháp này chỉ áp dụng được với các phần mềm sử dụng các thuật toán thông
thường mà các phát kiến mới về thuật toán là vô giá. Vì vậy, các phần
mềm sử dụng nhiều thuật toán mới như phần mềm nhúng, phần mềm đa phương
tiện, xử lý tín hiệu số… cần được tính toán như các trường hợp đặc
biệt.
Làm sao để không có kẽ hở trong đầu tư phần mềm?
-
Việc định giá phần mềm tùy tiện hiện nay có phải là nguyên nhẫn dẫn đến
những kẽ hở trong việc đầu tư đối với các dự án CNTT không?, Ông nghĩ
sao về câu nghi vấn này?
|
(Ảnh: Lê Anh Dũng) |
- TS Nguyễn Ái Việt: Lỗ
hổng chính trong quản lý đầu tư không phải là vấn đề định giá, bởi vì
định giá là ở các cơ quan quản lý; thanh toán và "động" đến tiền là ở
các cơ quan thực hiện dự án. Nếu có một quy trình “hậu kiểm” thật tốt
bao gồm các công đoạn: thiết kế, phát triển, kiểm thử… thật chi tiết,
thì đầu tư sẽ tránh được thất thoát và có chất lượng tốt. Việc "móc
ngoặc" giữa cơ quan quản lý và cơ quan thực hiện, nếu có là vấn đề pháp
luật chứ không còn là quản lý đầu tư chuyên ngành nữa, định giá cách
nào cũng không giúp gì được.
Có rất nhiều người lầm lẫn cho
rằng, định giá phần mềm là toàn bộ lời giải cho bài toán quản lý đầu tư
các dự án CNTT. Thực ra, định giá phần mềm chỉ giúp cho giai đoạn phê
duyệt đầu tư, vì cần phải có một con số ước tính để đưa vào lập kế
hoạch dự toán ngân sách.
Thất
thoát chỉ xảy ra trong quá trình triển khai khi thực chi không khớp với
thanh toán, hoàn toàn không liên quan gì đến định giá. Thực ra áp giá
“may đo” cho các sản phẩm đã bán nhiều lần trên thị trường mới là lỗ
hổng lớn nhất. Nhiều nhà sản xuất than là giá phần mềm quá “bèo”, trong
khi một số nhà sản xuất khác, biết “quan hệ” tốt hơn có thể bán cùng
một sản phẩm “may đo” nhiều nhiều lần.
Một
điều tra gần đây của một cơ quan nghiên cứu khẳng định giá trị gia tăng
của một vài công ty phần mềm có thể lên tới 90% doanh thu, có thể do cơ
chế này. Khi đó thì giá phần mềm quả tình không “bèo” chút nào. Với
“hành lang” rộng như vậy, các công ty nhỏ và mới thành lập làm sao vượt
qua được. Thành thử, thị trường cạnh tranh lại càng không hoàn hảo.
Chính
vì tình trạng này, năm 2001 tại Hàn Quốc, người ta đã đưa vào pháp lệnh
cấm việc sử dụng ngân sách đầu tư trùng lặp vào cùng một loại phần mềm,
xử lý cùng một quy trình. Theo đúng lý, nhà đầu tư vào phát triển sản
phẩm “may đo” phải được nắm quyền sở hữu sản phẩm đó, hợp đồng phát
triển phần mềm may đo phải là hợp đồng trao chìa khóa.
Như vậy, theo tôi, quản
lý đầu tư về CNTT sẽ triệt để nếu: Một, có phê duyệt hợp kiến trúc,
đảm bảo không đầu tư trùng lắp và đưa vào sử dụng có hiệu quả. Thứ hai,
bắt buộc giao nộp quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm “may đo”.
Thứ ba là có một quy trình “hậu kiểm” chặt chẽ bao gồm các giai đoạn
kiểm thử được chuẩn hóa.
Ý
nghĩa của việc định giá phần mềm chỉ là việc xác định được con số đầu
tư trong khâu phê duyệt dự án trong toàn bộ quy trình quản lý đầu tư dự
án về CNTT. Trong quy trình này, định giá chỉ là một khâu rất nhỏ,
không đáng để đầu tư thời gian bàn luận quá nhiều.
-
Thưa ông, phải chăng mâu thuẫn giữa quan điểm “giá phần mềm quá bèo” và
thực trạng có những công ty đạt mức giá trị gia tăng siêu cao thể hiện
thị trường phần mềm chưa thực sự cạnh tranh hoàn hảo? Chính đây cũng là
nguyên nhân sâu xa của việc chúng ta vẫn loay hoay với giá phần mềm?
- TS Nguyễn Ái Việt: Đúng
vậy. Thực ra, giá trị gia tăng siêu cao không hề đi đôi với siêu lợi
nhuận, tích tụ tài sản tạo tăng trưởng mạnh cho công nghiệp phần mềm mà
tạo thành bất bình đẳng trong cạnh tranh, tạo ra rào cản cho các doanh
nghiệp ít kinh nghiệm và khuyến khích các tệ nạn.
Trong
một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, việc định giá thị trường là
một việc rất khó và không thể giải quyết trọn vẹn ngay mà cần phải có
một quá trình. Phân biệt rạch ròi giữa phần mềm may đo và phần mềm sản
phẩm trong một thị trường như thế cũng là một việc hết sức khó khăn.
Xây dựng một database về giá - liệu đã chuẩn?
- Ông cũng thấy qua loạt bài về chủ đề này của VietnamNet,
tiếng nói chung từ các phía: người mua, người bán phần mềm, CQ phê
duyệt dự án đều mong muốn sớm có những cơ chế định giá chuẩn. Vậy Bộ
Bưu chính Viễn thông đã, đang và sẽ thực hiện việc này như thế nào?
- TS Nguyễn Ái Việt: Tất
cả chúng ta đều ao ước có được một quy định chung càng sớm càng tốt.
Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT và Bộ Bưu chính, Viễn thông rất quan tâm
và đã đặt giải quyết triệt để vấn đề này trong thời gian tới . Tuy
nhiên, do cách hiểu vấn đề này còn tương đối khác nhau, đạt được đồng
thuận là việc khó hơn so với vấn đề chuyên môn. Việc đưa vấn đề này ra
bàn luận rộng rãi trên các phương tiện đại chúng là điều rất cần thiết.
Khi
chúng ta đã có cách nhìn rõ ràng, tôi lạc quan cho rằng việc đưa ra một
giải pháp không phải là một vấn đề quá lớn. Nhiều khi, một cách đặt bài
toán đúng sẽ làm bài toán có lời giải giản đơn như bài toán quả trứng
của Christoph Colomb.
- Và quan điểm của ông là...?
- TS Nguyễn Ái Việt: Nếu chúng ta xác
định việc thanh toán đầu tư vào sản phẩm phần mềm thuộc về “hậu kiểm”
theo thực chi hoàn toàn không dính dáng gì tới vấn đề định giá thì bài
toán sẽ dễ đi rất nhiều. Trong thực tế, khi mua sắm bất cứ một
sản phẩm công nào, người mua hàng phải làm dự chi dựa trên những đơn
báo giá mà anh ta có. Thủ trưởng cơ quan sẽ có quyền duyệt chi. Thông
thường ông ta cần ý kiến của kế toán. Kế toán duyệt giá chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm “tiền án tiền sự”, cô ta sẽ không duyệt giá quá cao so
với những hóa đơn thanh toán các món hàng tương tự trước đây.
Hoàn
toàn tương tự như vậy, trên thế giới, người ta có thể định giá theo
nhiều cách để tham khảo, nhưng để định giá đầu tư cuối cùng người ta
phải xây dựng một cơ sở dữ liệu về các dự án đã đầu tư. Phê duyệt giá sẽ dựa trên cơ sở dữ liệu này với các phương pháp, giải thuật quy ước chung từ trước.
Như vậy, quy trình đầu tư dự án về CNTT cần tách ra làm 3 giai đoạn: i) giai đoạn phê duyệt ii) giai đoạn thiết kế và thi công và iii) giai đoạn kiểm thử. Định
giá phần mềm chỉ liên quan đến giai đoạn phê duyệt. Giai đoạn này cần
ngắn gọn để đảm bảo tính mềm dẻo của thiết kế chi tiết sau này và đảm
bảo chi phí thấp tránh rủi ro.
Để
ước tính được giá đầu tư cần phối hợp một số cách khác nhau. Trước hết
cần thống nhất một phương pháp định giá chuẩn dựa trên yêu cầu về chức
năng của phần mềm. Đồng thời phải xây dựng một cơ sở dữ liệu về các dự
án phần mềm.
Các
dự án về CNTT đều bắt buộc phải báo cáo về dự toán và thực chi cho cơ
sở dữ liệu này để làm cơ sở định giá cho các dự án sau. Với thời gian,
giá xác định từ cơ sở dữ liệu sẽ ngày càng gần hơn với giá cạnh tranh
trên thị trường và sẽ dần khác với giá thành sản xuất.
Nói
một cách khác, phương pháp đánh giá này có khả năng học tập, tự hoàn
thiện và góp phần khai thông những điểm không hoàn hảo của thị trường.
Khi đó phương pháp đã chọn chỉ có ý nghĩa định ra cấu trúc dữ liệu của
cơ sở dữ liệu nói trên. Ngoài ra, trong thời gian đầu, có thể sử dụng
một danh mục các nhà cung cấp sản phẩm giải pháp với ước lượng về giá
cho mỗi chức năng hay hợp phần để cung cấp thông tin cho các nhà đầu
tư. Mặt khác, danh mục này cũng sẽ giúp các nhà đầu tư tìm kiếm các
giải pháp có chất lượng một cách dễ dàng hơn.
Trước
mắt, các đơn vị quản lý dự án có thể đóng góp cho Bộ Bưu chính, Viễn
thông thông tin về các dự án đã thực hiện trong những năm gần đây để
xây dựng cơ sở dữ liệu đầu tiên. Khi đã có cơ sở dữ liệu, một phương
pháp định giá gần đúng nào đó và danh mục các nhà sản xuất có thể cho
đơn báo giá thường xuyên, Bộ và các Sở BCVT sẽ có đủ sở cứ để có thể
phê duyệt giá phần mềm. Vấn đề chính vẫn là phải có một quy trình được
hướng dẫn thật chi tiết.
- Cảm ơn ông đã dành thời gian trả lời VietNamNet!
Bùi Dũng
(Theo VietNamNet)
|