Ông
tiếp cánh phóng viên trẻ chúng tôi vào ngày cuối cùng ở cương vị Bộ
trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông (1/8/2007). Xen lẫn vào những lúc tiếp
khách, là việc thu xếp tài liệu, sách vở…
 |
“Lúc nào tôi cũng nghĩ đến lớp trẻ”. (Ảnh: LAD)
|
Dẫu vẫn còn biết bao tâm nguyện dở dang, nhưng đến thời điểm này ông
nói mình hạnh phúc: Hạnh phúc vì sự phát triển của ngành vươn lên một
tầm cao mới, về đội ngũ lãnh đạo, nhân lực toàn ngành trẻ, trình độ cao
so với mặt bằng chung của cả nước mà thấm đậm truyền thống Nghĩa tình.
“Lúc nào tôi cũng nghĩ đến lớp trẻ”
Ngồi với đám trẻ như
chúng tôi, ông dễ dàng ngược dòng thời gian, trở về giai đoạn học tập ở
trường Đại học Thông tin Liên lạc. Với cái chữ viết tắt TTLL, trường bị
gọi “thiếu thịt luôn luôn”; sau này còn bị diễu là “thỉnh thoảng liên
lạc”... vì điện thoại thỉnh thoảng mới gọi được.
Trải qua thời sinh viên,
học tập trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: học tập dưới hầm, bom Mỹ
đánh đêm ngày, ăn uống tự lo, sau đó có thời gian dài giảng dạy vì vậy
gắn bó và thông hiểu cuộc sống của học sinh - sinh viên nên ông luôn
quan tâm đến lớp trẻ. “Tình cảm, lòng yêu thương của những người dân
cho mình ở trọ, những khó khăn rất nghèo túng đã đưa vào máu của mình
tình cảm đối với lớp trẻ. Từ sinh viên rồi làm Bí thư đoàn trường đại
học và đến tận bây giờ tôi lúc nào cũng nghĩ tới việc làm tốt nhất cho
lớp trẻ. Lúc nào tôi cũng nghĩ tới nguồn nhân lực”, ông tâm sự.
Trước khi ông đi nghiên
cứu sinh tại CHDC Đức, Trường Đại học Thông tin Liên lạc vẫn còn. Nhưng
khi ông về nước với học vị tiến sĩ khoa học, trường được nhập vào
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. “Tôi chưa bao giờ buồn đến như vậy.
Nhiều lý do nhưng buồn nhất là một ngành công nghệ cao mà không có nơi
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực”, ông kể lại.
Câu chuyện, nỗi lo về
nguồn nhân lực “đeo” ông mãi. Năm 1997, là Ủy viên TW Đảng đảm trách
cương vị Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
Việt Nam (VNPT), tại Hội nghị TW2, khóa VIII ông đã đề nghị BCH TW Đảng
cho thí điểm thành lập mô hình gắn kết giữa nghiên cứu – đào tạo và sản
xuất kinh doanh trong một số tổng công ty lớn. Thật mừng, đề nghị của
ông được chấp nhận và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông ra đời,
có nghiên cứu, đào tạo và có cả ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Với
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, VNPT là tổng công ty đầu tiên
có trường đào tạo đại học, thậm chí có cả đào tạo cao học, tiến sĩ...
một mô hình vượt cấp cả mô hình trường đại học hoặc viện nghiên cứu,
nhưng lại gắn trực tiếp với sản xuất kinh doanh. Sau VNPT, đến nay đã
có nhiều doanh nghiệp xin thành lập trường đại học như FPT, dầu khí,
điện lực...
“Học viện cũng được 10
năm rồi, tuy còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết nhưng ít ra nó cũng
đặt nền móng và mình đã đi rất đúng hướng cái mà các tập đoàn kinh tế
lớn phải có. Trong cạnh tranh, tập đoàn nào mạnh về nhân lực thì tập
đoàn đó sẽ chiến thắng”, GS.TSKH Đỗ Trung Tá khẳng định.
Kiểm điểm lại gần 40 năm
công tác trong ngành, ông nói chưa bao giờ ngăn cản một suất học tập
nào cấp dưới trình lên, đào tạo bất kỳ ở đâu, ở Mỹ, ở Pháp. Có những
người vừa vào, chân ướt chân ráo 2 tuần ông cũng quyết định cử đi học
hàng năm trời ở Pháp, Mỹ ngay trong lúc quan hệ Việt - Mỹ chưa được
bình thường hoá. Cho đến nay, với tư cách là một giáo sư trong ngành
hay với tư cách là một lãnh đạo, ông luôn tạo mọi điều kiện cho lớp trẻ
đi học.
“Chính vì vậy, có thể
nói trình độ của ngành so với mặt bằng chung là cao. Các Thứ trưởng của
Bộ, lãnh đạo của các vụ, cục, viện... giờ đây hoàn toàn có thể chủ tọa
được các hội nghị quốc tế, tuổi còn rất trẻ... mừng lắm”, ông tự hào
nói.
Trong suốt quá trình làm
việc luôn nghĩ đến việc bồi dưỡng, đào tạo lớp trẻ, vì vậy giữa ông với
người dưới quyền của mình không có khoảng cách xa, rất đúng mực và gần
gũi. Truyền thống “nghĩa tình”, nhắc nhở mọi người luôn luôn nhớ tới
người đi trước, bồi dưỡng lớp hiện tại và chuẩn bị cho những lớp tương
lai, chứ không chỉ là thăm hỏi nhau nhân ngày truyền thống... “Suốt mấy
chục năm cống hiến cho ngành, tôi luôn hướng đến những lợi ích chung
của ngành, và đến bây giờ khi Bộ đã trưởng thành, Tập đoàn đã hình
thành, ngành ta bật lên một vị trí mới, tôi cảm thấy rất hạnh phúc”,
ông nói.
Trăn trở về thu hẹp khoảng cách số
Sinh trưởng ở nông thôn
nên ông lúc nào cũng đau đáu về sự phát triển của khu vực nông thôn.
Điều đó đúng, nhưng chỉ một phần. Hơn cả, khi là Bộ trưởng Bộ Bưu
chính, Viễn thông, ông mong muốn làm sao quan tâm hơn nữa đến vùng này,
chiếm khoảng 70% dân số Việt Nam. Sự ổn định ở đây trở thành nhân tố ổn
định của toàn xã hội. Ông nói, việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
trong tất cả các lĩnh vực mà thể hiện rõ nhất là tính công bằng cho các
vùng miền, nông thôn và thành thị.
 |
SGTSKH Đỗ Trung Tá với cán bộ, PV báo VietNamNet. (Ảnh: LAD)
|
Điểm Bưu điện Văn hoá xã chính là hiện thực hoá mong muốn đó. Văn hoá ở
đây nghĩa là điểm văn hoá và cung cấp một số dịch vụ văn hóa miễn phí
cho làng quê. Vì vậy, ngay từ đầu ông đã hình dung điểm Bưu điện Văn
hoá xã được thiết kế thống nhất trong cả nước. Đó là một ngôi nhà có
khuôn viên bao quanh, có giao dịch viên được lựa chọn, có khả năng gần
gũi khách hàng; có bàn ghế đầy đủ để người dân đọc sách báo miễn phí và
dần dần làm quen với dịch vụ bưu chính viễn thông. Họ vừa là người sử
dụng, vừa là người hưởng thụ những thành quả tiên tiến của công nghệ.
Xung quanh nhà có khuôn viên cây xanh, ghế đá - một nơi thực sự là
trung tâm văn hoá, giao tiếp công cộng. Cứ hình dung mỗi điểm Bưu điện
Văn hoá xã có một cột anten di động, cáp quang nối đến, các giao dịch
điện tử, gửi tiền, rút tiền trả lương được triển khai... Những điểm này
tự nhiên trở thành trung tâm Bưu điện - Văn hóa - Tài chính làng xã. Nó
vừa là thị trường cho lĩnh vực thông tin truyền thông, và chính nó giúp
nâng cao dân trí ở nông thôn, làm nảy nở các dịch vụ ở nông thôn, tham
gia giảm đói nghèo, một trong những điểm cốt yếu trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, xã hội.
“Từ lâu, tôi hay đi thăm
làng xã, cũng thấu hiểu nỗi khổ của dân mình qua bao năm chiến tranh
nên thấy mình làm được điều gì đó cho đất nước thì cố làm”, ông nói.
Đó cũng là lý do vì sao
mấy tháng gần đây ông tập trung cho một số các hoạt động liên quan đến
nông nghiệp, nông thôn. Bộ Bưu chính Viễn thông đã tổ chức một hội nghị
đưa CNTT-TT về nông thôn. Ông đã ký một thoả thuận với Hội Nông dân
phát triển CNTT-TT ở nông thôn. Ông cũng đã nhiều năm làm việc với Đoàn
(TW Đoàn TNCS HCM) để thúc đẩy chương trình thanh niên tình nguyện và
thanh niên của ngành tham gia tích cực trong việc phổ cập thông tin cho
giới trẻ nông thôn.
“Chúng ta sẽ còn phải
tiếp tục phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ; Bộ Công thương để phát
triển những sản phẩm trong nước với giá chấp nhận được. Chỉ có công
nghiệp trong nước mới có thể tham gia đóng góp được. Vì 70% dân số là
số lượng rất đông mà thu nhập rất thấp nên nếu không bằng chính công
nghiệp trong nước thì không giải quyết được vấn đề này. Đấy là cái tôi
mong muốn ngành ta làm tốt hơn”, ông nói.
Ông cho rằng khi thành
phố đang dần ở mức bão hoà về nhu cầu dịch vụ viễn thông, CNTT, mỗi
người cần hiểu rằng càng tới mức bão hoà bao nhiêu thì khoảng cách nông
thôn - thành thị càng xa bấy nhiêu. Vì vậy, phải quyết đẩy nhanh hơn để
thu hẹp khoảng cách số. Khoảng cách số không chỉ nói về kỹ thuật mà là
thông tin, sự gần gũi của chính quyền với người dân. Khi chính phủ điện
tử ra đời, chính phủ phục vụ các dịch vụ công tốt cho người dân, người
dân gần gũi với chính phủ hơn.
Xây dựng nông thôn Việt
Nam như vậy thực sự để nhanh chóng sánh vai các nước với những nét độc
đáo riêng của mình và ngành BCVT - CNTT phải là ngành đóng góp tích cực
cho hướng đó. Đây cũng là một mong muốn của ông.
Trên báo Bưu điện Việt
Nam, thỉnh thoảng đăng bút phê của Bộ trưởng bên cạnh những lá thư của
người dân gửi Bộ trưởng phàn nàn về chất lượng dịch vụ của ngành. Ngoài
ra, chính ông trực tiếp viết thư, gọi điện trả lời người dân hoặc khi
quá bận, ông giao cho các Cục, Vụ phải trả lời.
Ông cho rằng, cho dù có
trở thành một nước tiên tiến trong lĩnh vực dịch vụ bưu chính, viễn
thông, công nghệ thông tin thì người dân vẫn phàn nàn. Vì không có gì
vĩnh cửu, hoàn hảo. Vì vậy, những lời phàn nàn không thể không có được
mà chúng ta nên xem đó là những nhắc nhở. Khi anh làm nhanh, tất nhiên
dễ ẩu. Khi anh làm chậm thì không có tiền. Tất nhiên, vấn đề nào cũng
có hai mặt của nó và chúng ta phải luôn hướng tới sự thiện chí là quan
hệ giữa người khai thác, người cung cấp dịch vụ và khách hàng.
Ông đã nhiều lần nói,
không phải chỉ cung cầu đáp ứng là xong mà phải đáp ứng với chất lượng,
hiệu quả cho những nhu cầu đó. Nhưng người sử dụng cũng phải thấy khi
có điện thoại thì không chỉ đòi hỏi a lô cho rõ ràng mà phải sử dụng có
hiệu quả cho kinh doanh làm ăn. Có Internet không phải chỉ chát và chơi
game. Đấy là đáp ứng cung cầu nhưng chưa thực sự hiệu quả.
Việc trả lời khiếu nại
chất lượng dịch vụ là của doanh nghiệp, những việc ông làm chính là thể
hiện trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước. Doanh nghiệp làm việc có
hiệu quả, ít bị phàn nàn cũng là cách đo trách nhiệm của cơ quan quản
lý nhà nước.
“Sự gần gũi giữa cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp, khách hàng là đích cuối cùng, còn mục tiêu ban
hành văn bản, rà soát việc thực hiện mới chỉ là mong muốn chứ chưa thúc
đẩy phát triển thực sự”, ông nói.
Thanh thản để bước vào giai đoạn mới
Ông kể, năm 1984 khi về
nước, đang rất say sưa với công tác khoa học, Tổng cục trưởng Tổng cục
Bưu điện Đặng Văn Thân bổ nhiệm ông làm Phó viện trưởng Viện KHKT Bưu
điện. Khi ấy, ông tỏ ý không nhận mà chỉ xin làm cán bộ chuyên viên
khoa học kỹ thuật, nhưng được động viên rằng phải thích ứng với điều
kiện Việt Nam, Việt Nam mình không có điều kiện nghiên cứu như ở nước
ngoài, mà cần phải biến kiến thức của mình, học tập thêm kinh nghiệm
quản lý để đẩy được sự phát triển của KHCN lên trong thực tế. Lời động
viên của Tổng cục trưởng Đặng Văn Thân, ông chấp hành và từ đó đến nay
luôn nghĩ về vấn đề “Việt Nam hóa” những gì mình đã trải nghiệm ở nước
ngoài, từ nghiên cứu đến quản lý, đến nền nếp trong cơ quan như thế
nào.
Nay ông nói mình cũng
đến tuổi nghỉ ngơi, chắc chắn cũng phải dành thời gian thích hợp cho
việc đó. Nhưng với ông, thay đổi hình thức hoạt động cũng là một hình
thức nghỉ ngơi tích cực. Vì thế, còn khả năng nào thì ông sẽ tiếp tục
đóng góp đến mức đó cho sự phát triển chung của ngành, của đất nước.
“Tôi cũng mong muốn tiếp
tục được dành nhiều thời gian cho KHCN và công tác đào tạo lực lượng
cán bộ trẻ. Tôi cũng cảm thấy mình đã cố gắng rất nhiều và cũng có
những đóng góp nhất định, cũng rất thanh thản để bước vào một giai đoạn
mới, vừa nghỉ ngơi, vừa làm việc vừa sức với mình và vừa có điều kiện
quan tâm đến gia đình nhiều hơn”, ông nói.
Trong suốt những năm làm
lãnh đạo vừa qua, ông chưa có một ngày nghỉ phép nào, chưa đi với vợ
con và gia đình đến nơi nào nghỉ vào quãng độ 3 ngày. Ông tự phê đó
cũng là cách làm việc thiếu khoa học, thiệt thòi cho gia đình. Song may
là theo lời ông, được gia đình thông cảm. “Còn cái gì là thế mạnh của
mình thì mình cần phải tiếp tục, nếu không làm trực tiếp thì cũng phải
làm gián tiếp cho những thế hệ sau”, ông nói.
(Theo BĐVN) (Theo VietNamNet)
|