|
Ý
thức được tầm quan trọng của CNTT nên các công ty CK VN sẵn sàng chi
phí lớn cho đầu tư hạ tầng khi họ chắc chắn việc đầu tư đó là đúng đắn |
|
Ý
thức được tầm quan trọng của CNTT nên các công ty CK VN sẵn sàng chi
phí lớn cho đầu tư hạ tầng khi họ chắc chắn việc đầu tư đó là đúng đắn.
Tuy nhiên, thời điểm này, thực sự họ đang lúng túng để tìm một giải
pháp CNTT phù hợp... Đã chú trọng đầu tư
Không
được biết đến sớm như trung tâm Giao Dịch Chứng Khoán TP.HCM - HoSTC
(khai trương phiên giao dịch đầu tiên vào tháng 7/2000), trung tâm Giao
Dịch Chứng Khoán Hà Nội - HaSTC mãi đến tháng 7/2005 mới khai trương
sàn giao dịch chứng khoán (CK) thứ cấp. Và cũng không “dễ dàng” như
HoSTC, được Thái Lan hỗ trợ hoàn toàn về giải pháp CNTT phục vụ giao
dịch lúc đầu, HaSTC đã mất hơn 2 năm phối hợp với FPT (đối tác công
nghệ) tìm hiểu, xây dựng, mới cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 của hệ
thống. Sau đó 6 tháng liên tiếp, 10 công ty CK đã cùng với HaSTC chạy
thử hệ thống trước khi đưa vào vận hành.
HaSTC giai đoạn 1 đã
đầu tư khoảng 6 tỷ đồng để xây dựng hệ thống CNTT đồng bộ hỗ trợ nghiệp
vụ CK, trong đó có hơn 1 tỷ để đầu tư phát triển phần mềm. Vì là đơn vị
“đi sau”, HaSTC có cơ hội đánh giá, tìm hiểu để xây dựng được một hệ
thống phù hợp với thị trường hiện tại. Ông Trần Văn Dũng, giám đốc
HaSTC cho biết, thời gian qua hệ thống hoạt động tương đối ổn định, kể
cả trong những thời điểm thị trường CK có sự bùng nổ khiến quy mô và số
lượng giao dịch tăng mạnh.
Vì ý thức được tầm quan trọng của
CNTT nên các công ty CK VN sẵn sàng chi phí lớn cho đầu tư hạ tầng khi
họ chắc chắn việc đầu tư đó là đúng đắn. Tuy nhiên vì không dám chắc hệ
thống A hay B tối ưu hơn và có “tuổi thọ” cao trong sự phát triển rất
nhanh của thị trường nên họ chưa dứt khoát đầu tư.
Ngoài trung
tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK), các công ty CK cũng rất chú trọng
đến hạ tầng CNTT cho công ty, trong đó có một số công ty lớn như công
ty CK Sài Gòn (SSI), công ty CK Sacombank (SBSC), công ty CK
Vietcombank (VCBS)...mua giải pháp của nước ngoài đã được tùy biến cho
phù hợp với sự phát triển của thị trường VN. Số còn lại mua giải pháp
trong nước, hoặc kết hợp với một doanh nghiệp CNTT để phát triển hoặc
tự phát triển. Chẳng hạn công ty CK Biển Việt (CBV), đã tự xây dựng
phần lớn các giải pháp đang ứng dụng tại CBV sau khi tham khảo nhiều
giải pháp ứng dụng của các nước có thị trường CK phát triển. Công ty cổ
phần CK Tràng An đã đầu tư một khoản không nhỏ để thuê công ty cổ phần
Phần Mềm CK VN xây dựng hệ thống BackOffice cho công ty.
Lúng túng vì Thiếu đồng bộ
Hiện
tại, các trung tâm giao dịch CK và trung tâm lưu ký CK đều chịu sự quản
lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Trong đó Trung tâm lưu ký
CK nhằm thực hiện đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán CK và cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ giao dịch, mua bán CK trên thị trường CK. Tuy nhiên,
do thị trường CK VN đang trong giai đoạn hình thành nên các trung tâm
này chưa thống nhất về hạ tầng mà đang đầu tư tương đối độc lập. Các hệ
thống này có khác biệt nhất định về nền tảng công nghệ, trong đó quy
trình giao dịch tại các trung tâm giống nhau, nhưng cách thức triển
khai lại khác nhau. Theo ông Mạnh, trưởng phòng công nghệ tin học
HaSTC, sự thiếu đồng bộ này do 2 nguyên nhân chính: Sự phát triển rất
nhanh của thị trường CK VN khiến các công ty CK cũng như các TTGDCK đều
đang loay hoay tìm giải pháp sao cho phù hợp.
Vì không có hệ
thống trung gian cho các TTGDCK và Trung tâm lưu ký CK, dẫn đến các
công ty CK rất bối rối khi xây dựng hạ tầng CNTT. Bài toán đặt ra là,
với HaSTC, công ty CK sẽ phải đầu tư một hệ thống bao gồm đường truyền,
máy trạm, ứng dụng riêng. Nhưng HoSTC cũng có một hệ thống độc lập được
các chuyên gia Thái Lan xây dựng từ những năm 1980, như vậy công ty CK
lại phải đầu tư một hệ thống tương tự để có thể kết nối. Nếu kể thêm cả
Trung tâm lưu ký CK thì các công ty CK sẽ đầu tư thêm một hệ thống nữa.
Vậy là mỗi công ty CK khi đầu tư hạ tầng CNTT phải tìm hiểu xem HaSTC
hiện đang đầu tư hệ thống như thế nào, HoSTC sẽ thay đổi gì trong tương
lai. Từ đó, công ty CK mới có thể đưa ra bài toán đầu tư thích hợp.
Ưu
điểm của giải pháp CNTT có sẵn, xuất phát từ các TTCK tiên tiến và ổn
định là giải pháp tổng thể với các nghiệp vụ CK đã chuẩn hóa và được
kiểm chứng. Tuy nhiên, các giải pháp đó có nhược điểm là được phát
triển từ nhiều năm trước bằng các công nghệ cũ và các quy trình quản lý
cũ. Chỉ khi các công ty CK kiểm soát được công nghệ và mã nguồn của
giải pháp để thay đổi, tùy biến cho phù hợp với nghiệp vụ kinh doanh cụ
thể tại TTCK Việt Nam thì các giải pháp đó mới phát huy được hiệu quả
tối ưu.
Hiện tại, việc gửi và nhận lệnh giao dịch giữa các
công ty CK và HaSTC được thực hiện thông qua các broker (đây là nhân
viên của các công ty CK có nhiệm vụ nhận lệnh từ công ty CK và chuyển
lệnh vào hệ thống của HaSTC). Sau khi có kết quả khớp lệnh, HaSTC gửi
lại kết quả cho các broker và broker gửi kết quả về công ty CK của
mình. Trên thực tế, rất nhiều các sàn giao dịch CK lớn trên thế giới
vẫn sử dụng broker làm trung gian gửi/nhận lệnh và kết quả khớp lệnh.
Tuy vậy, khi thị trường phát triển, sẽ có thêm nhiều công ty CK trở
thành thành viên của HaSTC, đồng nghĩa với việc sẽ có thêm nhiều broker
thường trực tại HaSTC. Để tối ưu hoá quy trình gửi và nhận lệnh, HaSTC
đang có kế hoạch xây dựng hệ thống để các công ty CK kết nối trực tiếp
tới HaSTC mà không cần broker tại sàn. Nghĩa là công ty CK sẽ nhập lệnh
từ xa, thông qua máy trạm do HaSTC quản lý, và lệnh sẽ được chuyển vào
hệ thống của HaSTC. Với cách làm này, công ty CK không chỉ tiết kiệm
chi phí, nhân lực mà còn giảm thiểu sai sót so với khi nhận lệnh qua
điện thoại, fax...Ông Mạnh cho biết, dự kiến cuối năm nay sẽ đưa hệ
thống vào vận hành.
Giải pháp dùng chung
“Các
công ty CK rồi đây sẽ phải tùy biến hệ thống sao cho sự kết nối tương
thích với hệ thống máy trạm của HaSTC. Vậy giải pháp CNTT phù hợp cho
các công ty CK vào thời điểm này là các giải pháp đáp ứng được nhiều
nhất yêu cầu của công ty CK và phải có khả năng mở rộng, tùy biến
(customize) dễ dàng”, ông Hưng - giám đốc công nghệ công ty CK Biển
Việt - cho biết.
Như vậy để tránh lãng phí đầu tư hạ tầng CNTT
cho công ty CK cũng như các TTGDCK, nên có một hệ thống trung gian dùng
chung. Khi đó mọi giao dịch giữa các công ty CK với các TTGDCK, Trung
tâm lưu ký CK sẽ thông qua trung gian là hệ thống dùng chung này. Có ý
kiến cho rằng hệ thống này nên do UBCKNN quản lý. Các công ty CK lúc
này không phải lo lắng về việc giải pháp của công ty mình đã có sự
tương thích, kết nối với cả 3 hệ thống của TTGDCK, Trung tâm lưu ký CK
hay chưa, mà họ chỉ phải đầu tư một giải pháp Backoffice kết nối thông
suốt với hệ thống trung gian là được.
(Theo PC World VN) (Theo VnMedia)
|