|
Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung Tá. Ảnh: TN |
|
- Tại Hội thảo khoa học Công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ
nông thôn do Bộ Bưu chính Viễn thông vừa tổ chức, mặc dù ghi nhận những
thành công bước đầu trong chính sách phát triển ICT tới vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa song vẫn còn những băn khoăn, những ý tưởng nhằm
triển khai tốt hơn nữa mô hình này cho người dân nông thôn. Phóng viên
đã có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá, đại
diện Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn và Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông xung quanh nội dung này. Bộ trưởng đánh giá như thế nào về kết quả ứng dụng ICT phục vụ nông thôn trong thời gian vừa qua? Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung Tá:
Thời gian qua chúng ta đã phát triển Bưu chính Viễn thông rất mạnh mẽ.
Có thể nói những lĩnh vực chúng ta phát triển đều có sự đánh giá trân
trọng của các tổ chức quốc tế cả về hai lĩnh vực bưu chính cũng như
viễn thông. Trong khi xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa hiện nay, ngay trong lĩnh vực bưu chính viễn thông và
CNTT, Nhà nước cũng rất chú ý, tạo điều kiện cho sự phát triển ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa. Khoảng cách số giữa nông thôn và thành thị ở
Việt Nam có thể nói được đánh giá là một trong số các nước có kết quả rất tích cực. Ví
dụ như người dân hiện nay chỉ cách xa điểm phục vụ của Bưu điện có 2,3
km. Đó là về bưu chính. Còn về viễn thông, tốc độ điện thoại chúng ta
duy trì tốc độ phát triển nhanh nhưng không phải chỉ dành cho thành thị
mà chúng ta đã phát triển tới cả vùng nông thôn. Ngày 31/12/2005, Việt Nam
đã hoàn thành chỉ tiêu 100% xã có điện thoại. Điều hạn chế của chúng ta
trong phát triển điện thoại nông thôn đó là số lượng còn ít. Có những
xã đã phát triển tới hàng nghìn máy điện thoại nhưng cũng có những xã
mới chỉ có 2 - 3 máy điện thoại. Thậm chí có những xã có 4-5 điện thoại
bằng những hệ thống thông tin vệ tinh. Vì địa hình của Việt Nam
khá phức tạp, nên việc triển khai điện thoại xuống xã phải áp dụng rất
nhiều loại hình công nghệ khác nhau. Các giải pháp, sáng kiến cải tiến
kỹ thuật để phát triển bưu chính viễn thông nông thôn rất nhiều. Có thể
nói ngay từ năm 1985-1986 chúng ta đã nghĩ tới mô hình các bưu điện xã
nhưng sau đó khi máy điện thoại đưa vào Uỷ ban xã thì thậm chí Uỷ ban
còn không có tiền trả cước. Vì vậy từ năm 1997, ngành đã quyết định
thành lập các điểm Bưu điện Văn hoá xã. Tính văn hoá ở đây đó là chúng
ta không chỉ có mục tiêu kinh doanh mà muốn mở mang dân trí, đưa những
dịch vụ miễn phí về cho người dân, cụ thể là đọc sách báo, văn bản...
Cho tới nay, chính tính văn hoá của các điểm Bưu điện này đã hấp dẫn
người dân hiểu biết thêm nhiều thông tin. Chẳng hạn như thế nào là điện
thoại, sử dụng dịch vụ tiện lợi như thế nào?... Chính vì vậy từ những
năm đầu doanh số của những điểm này chỉ khoảng 200.000 đồng/tháng thì
tới nay đã đạt trung bình 2,5 triệu đồng/tháng/điểm. Điều đó có nghĩa
là chúng ta đã hết sức chú ý tới việc phát triển của nông thôn. Thời gian tới Bộ sẽ có những kế hoạch gì nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai ICT cho nông thôn, thưa Bộ trưởng? Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung Tá:
Tuy vậy, chúng ta vẫn còn những mặt kém. Kém thứ nhất là về số lượng,
thứ hai đó là những thông tin mà nhà nông cần hiện giờ mình vẫn chưa
đáp ứng được. Cái thứ ba đó là với số lượng 70% dân số Việt Nam còn
nghèo mà các dịch vụ triển khai không có sự linh hoạt, hỗ trợ của các
dịch vụ công ích, nếu đã tập trung vào cạnh tranh thì phải vì lợi
nhuận. Còn nếu công ích mà cứ theo cung cách của kinh doanh thì không
được. Vì vậy Bộ đã quyết định ra được quỹ dịch vụ viễn thông công ích.
Những nơi nào khó khăn như vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa sẽ có sự
hỗ trợ của quỹ. Một cái mà có thể nói tôi rất cảm động khi tham dự buổi
hội thảo khoa học này là đem vào những tính khoa học cao nhất, hiện đại
nhất hiện nay để vào ứng dụng phục vụ nông thôn với giá rẻ nhất. Với
những thành quả của công nghệ và những sáng kiến, sáng tạo của lực
lượng làm kỹ thuật của Việt Nam, chúng ta tạo điều kiện vừa phục vụ nông dân nhưng bên cạnh đó cũng hỗ trợ cho công nghiệp phát triển. Tôi
cũng chợt nảy ra một ý, chúng ta không phải dùng quỹ công ích để mua
trực tiếp thiết bị nước ngoài phục vụ nông dân mà qua trung gian phát
triển nông thôn này để thực hiện được những trang thiết bị hiện đại,
nhưng thiết kế rồi phần mềm điều hành là của người Việt Nam.
Cho nên có thể nói cái phần "xác" ta còn phải mua ở các hãng nước ngoài
nhưng phần "hồn" của thiết bị đó là được chế tạo ở Việt Nam.
Chúng ta hoàn toàn có thể làm được bài toán ngược lại. Cho người dân
nông thôn sử dụng dịch vụ IP giá rẻ trước rồi dần dần trên toàn quốc
sẽ sử dụng dịch vụ IP. Như vậy chúng ta sẽ thực hiện được mô hình xã
hội thông tin mà mọi lúc, mọi nơi chúng ta đều có được thông tin điện
thoại. Thêm
một bước nữa là băng rộng sẽ xuống đến nông thôn. Hiện nay đã triển
khai ở tất cả các điểm Bưu điện Văn hoá xã đều có đường cáp quang. Nếu
triển khai nối tiếp thêm các dịch vụ vô tuyến thì hoàn toàn người dân ở
nông thôn cũng được sử dụng tất cả những dịch vụ như thành thị. Là
một Bộ có rất nhiều gắn bó với mọi mặt đời sống của người dân nông
thôn, theo ông, hiện nay, bà con nông dân cần nhất những thông tin gì
có thể đẩy mạnh ICT phục vụ nông thôn? TS. Nguyễn Bỉnh Thìn - Phó vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ Bộ Nông nghiệp và PTTN:
Bà con nông dân hiện nay rất cần những thông tin liên quan tới vấn đề
nông nghiệp, những thông tin về thị trường, giá cả nông sản, thực
phẩm... Làm sao để có thông tin nuôi con gì để đem lại hiệu quả nhất?
Loại cây nào, hoa quả nào có năng suất cao? Bán ở thị trường nào đem
lại doanh thu tốt nhất?... Vấn đề nữa mà bà con nông dân quan tâm đó là
những thông tin về vấn đề kỹ thuật canh tác các loại cây trồng, vật
nuôi sao cho đem lại chất lượng tốt, số lượng nhiều. Nếu chuyển đổi cơ
cấu cây trồng từ chuyên canh lúa sang trồng hoa màu thì phải chọn những
loại cây nào? Giống ở đâu?... Thứ ba là thông tin về chế biến bảo quản
cũng rất quan trọng. Rồi việc bảo vệ thương hiệu sản phẩm. Khi chúng ta
mua rau ở ngoài thị trường, rất cần biết thương hiệu rau đó có an toàn
hay không? Và để đảm bảo với người tiêu dùng thì bà con nông dân phải
đăng ký chất lượng sản phẩm, có một cơ quan có thẩm quyền công nhận đó
là rau an toàn... Tất cả những thông tin này đều rất quan trọng đối
với bà con nông dân. Những thông tin như vậy hiện đang được cung cấp cho bà con nông dân như thế nào? TS. Nguyễn Bỉnh Thìn - Phó vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ Bộ Nông nghiệp và PTTN: Hiện
nay Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn đã cố gắng cung cấp một số
những thông tin này, tuy nhiên cũng còn rất hạn chế. Để thực sự hiệu
quả cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa công nghệ truyền thông của Bộ Bưu
chính Viễn thông và phần mềm nội dung thông tin do Bộ Nông nghiệp và
PTTN thực hiện. Chúng tôi sẽ nói ra những gì mà người nông dân cần và
những cơ quan, doanh nghiệp cung cấp công nghệ sẽ cho biết năng lực
truyền thông tin như thế nào, hỗ trợ được đến đâu... Đó là một dịch vụ
rất có ích cho bà con nông dân giúp họ có công ăn việc làm, có được sản
phẩm chất lượng cho thị trường được đánh giá đúng chất lượng và giá
trị. Như vậy, chịu trách nhiệm về "phần cứng" là Bộ Bưu chính Viễn
thông và các doanh nghiệp viễn thông, Internet còn về "phần mềm" là
nhiệm vụ của Bộ Nông nghiêp phát triển nông thôn.
 | Ông Nguyễn Mậu Lân - Trưởng Ban phát triển BCVT nông thôn thuộc VNPT. | Để
thực hiện được sẽ cần có những buổi làm việc cụ thể giữa hai Bộ để có
thể đưa ra một số cơ chế chính sách để phát triển những dịch vụ công
này cho người nông dân. Ngoài ra cũng cần có những mô hình trình diễn
để đưa những công nghệ này giúp bà con nông dân hiểu và biết cách sử
dụng dịch vụ và công nghệ.
Là
một doanh nghiệp rất chú trọng phát triển, cung cấp dịch vụ tại địa bàn
nông thôn, xin ông cho biết Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam có
những chiến lược gì để nhằm đẩy mạnh ICT phục vụ nông thôn? Ông Nguyễn Mậu Lân - Trưởng Ban phát triển BCVT nông thôn thuộc VNPT:
Hiện nay, mô hình điểm Bưu điện Văn hoá xã của VNPT đã phát triển tới
con số gần 8.000 điểm. Lợi thế của điểm Bưu điện Văn hoá xã đó là khi
bất kỳ một dịch vụ nào được triển khai, người nông dân sẽ là đối tượng
đầu tiên được sử dụng dịch vụ đó. Do vậy, trong thời gian tới mô hình
này sẽ tiếp tục được VNPT củng cố và đem tới nhiều dịch vụ tiện ích hơn
nữa. Ngoài ra cũng sẽ có cơ chế, chính sách làm sao để người sử dụng có
thể được hưởng những cước phí về dịch vụ điện thoại, Internet ưu đãi
nhất. Nhiều ý kiến cho rằng không chỉ đơn thuần là đưa Internet về điểm
Bưu điện Văn hoá xã mà vấn đề nội dung nữa, làm sao từ đó có thể giúp
được người nông dân phát triển kinh tế hàng hoá...
Thuỷ Nguyên (thực hiện) (Theo VnMedia)
|