Huy
động vốn đầu tư cho CNTT được đánh giá là khâu yếu nhất trong triển
khai Chỉ thị 58 giai đoạn 2001 – 2005. Đây là một trong những yếu
tố chính khiến CNTT Việt Nam chưa hoàn thành kế hoạch đề ra.
 |
Hội thảo đánh giá bài học kinh nghiệm sau 5 năm triển khai Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị về ứng dụng và phát triển CNTT. Ảnh: Hưng Hải. |
Xuất phát điểm thấp...
Theo ước tính, ngân sách đầu tư cho
CNTT Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001 – 2005 từ các nguồn khác nhau
chưa tới 0,4% GDP, thấp hơn nhiều lần so với con số 2% GPD đề ra trong
Kế hoạch Tổng thể. Xu hướng tăng của lượng tiền đổ vào lĩnh vực này
tăng từ 30 – 50% mỗi năm, nhưng xuất phát điểm quá thấp nên vẫn không
đủ “lực” để có sự phát triển nhảy vọt.
Kinh nghiệm các nước đang phát triển
muốn đẩy mạnh CNTT đều phải có mức đầu tư hàng năm không dưới 1% ngân
sách. Cụ thể như Hàn Quốc, quốc gia điển hình phát triển thần tốc về
CNTT tại châu Á, dành tới 1,4% ngân sách. Estonia cũng dành 1% ngân
sách hàng năm để thực hiện tham vọng và trở thành nước đang phát triển
đi đầu trong ứng dụng CNTT.
Nguồn vốn phân bổ cho các dự án của
Việt Nam vừa nhỏ giọt, vừa dàn trải, chưa quán triệt chủ trương ưu tiên
đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT. Cách phân bổ ngân sách không
theo trọng điểm và nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch, mang màu sắc cảm
tính của cơ chế “xin – cho”.
...làm đình trệ các dự án!
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch Đầu tư,
toàn bộ các dự án, chương trình của Kế hoạch Tổng thể được phân bổ
trong mục “Đề án 95 và chương trình phần mềm nguồn mở” bên cạnh Đề án
112 và Đề án 47. Tuy nhiên, phần lớn các dự án được đầu tư dưới danh
nghĩa Đề án 95 không có trong danh mục chương trình và dự án trọng điểm
của Kế hoạch Tổng thể. Mặt khác, việc huy động các doanh nghiệp tham
gia đầu tư ứng dụng CNTT hầu như không có.
Hạn chế về nguồn lực khiến hầu hết
các chương trình, dự án liên quan đến ứng dụng và phát triển CNTT trong
giai đoạn 2001 – 2005 bị đình trệ. Trong số 4 chương trình trọng điểm,
duy nhất có Chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT là xây dựng
xong kế hoạch triển khai cụ thể được phê duyệt với 6 dự án, đề án.
Chương trình này sau đó chưa triển khai được vì không có cơ chế huy
động nguồn tài chính riêng. Thay vào đó là nguồn tiền hạn chế từ Chương
trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và các nguồn tài trợ.
Hai chương trình xây dựng và phát
triển công nghiệp phần cứng và phần mềm đều không đạt được tiến trình
như dự kiến. Các chỉ tiêu liên quan đều không đạt được. Doanh thu dự
kiến từ công nghiệp phần mềm đạt 500 triệu USD, trong đó xuất khẩu 200
triệu USD, chỉ đạt 45% chỉ tiêu, doanh thu xuất khẩu đạt 35%.
Duy nhất có Chương trình Xây dựng và
nâng cấp kết cấu hạ tầng viễn thông và Internet, tuy không được xây
dựng trong Kế hoạch Tổng thể, nhưng lại có nhiều nội dung liên quan
được triển khai nhất. Nguyên nhân là vì ngày 8/2/2002, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam 2001 – 2005.
Dự án trọng điểm duy nhất này không
mắc phải vấn đề kinh phí là Dự án Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Nắm
phần lớn nguồn ngân sách tổng kinh phí huy động cho cả giai đoạn 2001 –
2005, dự án này có kinh phí lên tới 9.755 tỷ đồng, trong đó dành cho
Ngân hàng Nhà nước là 108 tỷ đồng, các ngân hàng thương mại chiếm 9.647
tỷ đồng và cũng là dự án có những kết quả dễ nhìn thấy được nhất.
Hiện tại, 85% nghiệp vụ ngân hàng đã
được chuyển lên xử lý trên mạng máy tính ở các cấp độ khác nhau. Hệ
thống thanh toán liên ngân hàng được xây dựng theo chuẩn quốc tế được
đưa vào hoạt động năm 2002. Hệ thống thanh toán nội bộ các ngân hàng
thương mại được vận hành từ năm 2003 với số lượng thanh toán tăng 35%
mỗi năm.
Dù vậy, trình độ ứng dụng CNTT trong
ngành này vẫn có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế
giới. Nguyên nhân bởi cơ sở hạ tầng viễn thông quốc gia chưa đáp ứng
được yêu cầu ứng dụng CNTT đặc thù của ngân hàng. Kiến trúc thống nhất
về hệ thống cho ngành này cũng chưa có, thiếu cơ sở phát triển đồng bộ
giữa các đơn vị.
Ngân sách - Cần lắm!
Theo ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Thứ
trưởng Bộ Tài chính, Nhà nước cần thể hiện quan điểm rõ ràng về nguồn
lực cho CNTT, cụ thể bằng tỷ lệ ngân sách dành cho lĩnh vực này. Đây
cũng là một trong những kiến nghị của Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT đề
xuất với Chính phủ nhằm khắc phục những vẫn đề tồn tại khi triển khai
giai đoạn 2 từ 2006 – 2010. Con số này có thể lớn hoặc nhỏ nhưng đảm
bảo cho các đơn vị hoạch định và triển khai chương trình tổng thể trung
và dài hạn.
Thời điểm hiện tại, Việt Nam trở
thành điểm đến hấp dẫn của giới CNTT-TT thế giới. Song song với những
cơ hội thì điều đó cũng cho thấy chúng ta đang vấp phải sự cạnh tranh
gay gắt từ hai phía: giá cả từ các quốc gia trong khu vực và chất lượng
từ các tập đoàn đa quốc gia với bề dày kinh nghiệm.
Hưng Hải (Theo VietNamNet)
|