- Tính tời thời điểm này, đã gần 10 năm Việt Nam
chính thức tham gia mạng Internet toàn cầu. Việc sử dụng Internet giờ
đã trở thành nhu cầu thiết yếu của đông đảo người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, để có ngày hôm nay, với Nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn
thông Mai Liêm Trực - đây là cả một quá trình nỗ lực ròng rã thuyết
phục các lãnh đạo đồng ý mở cửa Internet với rất nhiều kỷ niệm... Thời điểm Internet vào Việt Nam: Không thể sớm hơn nữa “Việt
Nam tham gia mạng Internet toàn cầu ở một thời điểm rất quan trọng, và
có lẽ, dù một số người mong muốn ra sớm hơn, nhưng theo đánh giá của
tôi, khó mà có thể sớm hơn được nữa” - Nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính
Viễn thông (BCVT) Mai Liêm Trực đã nhận định như vậy về một thời điểm
không thể nào quên trong lịch sử phát triển của ngành Bưu chính Viễn
thông Việt Nam - ngày đầu Việt Nam đã được hoà vào mạng Internet toàn
cầu, 19/11/1997. Khi ấy, nguyên Thứ trưởng Bộ BCVT đang đảm nhận chức
vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện - cơ quan quản lý lĩnh vực BCVT
lúc bấy giờ. Ông
dẫn chứng: “Nếu như các dịch vụ viễn thông của Việt Nam mở ra chậm hơn
thế giới khoảng 40-50 năm, dịch vụ điện thoại di động chậm hơn của thế
giới khoảng 15-20 năm thì Internet vào Việt Nam chậm hơn so với khởi
đầu của thế giới chỉ chừng 7-8 năm. Còn so với một số quốc gia trong
khu vực thì chỉ chậm vài ba năm”. Phải
nói rằng cũng khó mà có thể đưa Internet vào sớm hơn được. Không phải
lý do do vấn đề kỹ thuật, công nghệ bởi lẽ đến thời điểm năm 1997, mạng
viễn thông của Việt Nam tuy dung lượng còn nhỏ nhưng về công nghệ cũng
đã tương đương với những nước trong khu vực, lúc đó, viễn thông Việt
Nam đã thực hiện chiến lược số hoá trên toàn mạng. Nhưng quả là không
dễ dàng gì trong những ngày đầu với nhiệm vụ thuyết phục các lãnh đạo
đồng ý mở của Internet. Những ngày đầu đáng nhớ Nguyên
Thứ trưởng Mai Liêm Trực nhớ lại, quá trình thuyết phục là một quá
trình khó khăn nhưng cũng có nhiều may mắn. Điều khó nhất lúc đó là làm
sao có thể thuyết phục được, trình bày được, giải trình được với các
giới lãnh đạo về những lợi ích thiết yếu của Internet cho sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước hội nhập quốc tế. Khi ấy đất nước ta đang trên đà đổi mới, Việt Nam
đã tham gia vào nhiều tổ chức trong khu vực và thế giới như ASEM. Trong
khi các thành viên trong ASEM đang hướng tới eASEM mà Việt Nam lại chưa có Internet. Đây chính là một trong những yếu tố thuyết phục cần phải thúc đẩy sớm đưa Internet vào Việt Nam. Nhưng
điều khó nhất cần phải thuyết phục được lãnh đạo cấp trên là thuyết
phục về khả năng cung cấp, phát triển và quản lý dịch vụ Internet khi
chúng ta mở ra tại Việt Nam.
Nguyên Thứ trưởng cho biết, về mặt kỹ thuật, công nghệ thì không có
nhiều khó khăn, nhưng khi quản lý dịch vụ thì khó khăn hơn kỹ thuật rất
nhiều kể cả vấn đề chất lượng dịch vụ, tốc độ truy cập, giá cước. Vì
đây là lần đầu tiên chúng ta triển khai Internet tại Việt Nam nên chưa có kinh nghiệm nhiều. Đã
có nhiều câu hỏi băn khoăn lo lắng về những mặt tiêu cực khi mở
Internet của lãnh đạo cấp trên, chẳng hạn như sợ lộ bí mật. Trước đây,
một cá nhân khi ra nước ngoài sẽ phải kiểm tra trực tiếp xem họ mang
theo những tài liệu gì nhưng khi đã có Internet rồi ai cũng biết làm
sao mà quản được nữa. Rồi lo việc lợi dụng Internet nói xấu, xuyên tạc
chế độ... Những sự lo ngại đó đều rất đúng, chính đáng nhưng nếu không
có sự giải toả ngay thì sẽ làm chậm quá trình Việt Nam tham gia triển khai dịch vụ Internet. Theo Nguyên Thứ trưởng, thời gian đưa Internet vào Việt Nam khi đó được tính bằng ngày, bằng tuần. Và
để có thể giải toả được, những người đưa Internet vào phải giải trình
được với các cấp lãnh đạo được những khúc mắc đó. "Anh" phải đủ hiểu
biết và lý lẽ để thuyết phục được, thậm chí, theo Nguyên Thứ trưởng,
"anh" cũng phải dũng cảm giải trình. Khi bị đặt câu hỏi phải trả lời
được, phải thuyết phục, giải toả những lo ngại đồng thời đưa ra những
biện pháp hạn chế những tiêu cực đó, làm sao giúp các bậc lãnh đạo thấy
được mở Internet ra sẽ tốt hơn là đóng kín. Tất nhiên cái gì cũng có
mặt lợi, mặt hại. Vấn đề ở chỗ "anh" phải có kiến thức hiểu thực chất
vấn đề, mặt lợi, mặt hại, “anh” phải hiểu thực chất, hiểu một cách rõ
ràng, cụ thể. Ngoài hai yếu tố trên, theo Nguyên Thứ trưởng, yếu tố thứ
ba cũng không thể thiếu đó là phải tạo ra được sự ủng hộ, đồng thuận
nhất là ở các cấp bộ, ngành. Do đó việc Việt Nam
có ngay một Ban chỉ đạo ở thời kỳ đầu trong lĩnh vực Internet là rất
cần thiết để có được tiếng nói chung cùng thấy được cái khó và cái
thuận. Về
chủ trương đã được lãnh đạo trung ương bật đèn xanh mặc dù còn có những
e ngại như cần phải "quản đến đâu, mở đến đấy". Các nhà khoa học của
Việt Nam rồi các cơ quan thông tin đại chúng cũng đã nhận thấy sức
mạnh của Internet và có ý thức thúc đẩy, ủng hộ đã giúp cho các nhà
quản lý như Tổng cục Bưu điện, Bộ Khoa học công nghệ, Bộ Văn hoá Thông
tin, Bộ Công an... những thành phần chủ chốt trong Ban chỉ đạo quốc gia
về Internet lúc đó có thể mạnh dạn, quyết liệt để xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật, các nghị định, các thông tư, các quy định, quy chế
của Tổng cục Bưu điện về chất lượng dịch vụ, giá cước... để tạo hành
lang pháp lý cho tốt. Trong
vai trò là Phó Ban chỉ đạo quốc gia về Internet, (lúc đó người giữ
trọng trách Trưởng ban là Phó Thủ tướng hiện nay của nước ta Phạm Gia
Khiêm) nguyên Thứ trưởng cùng các thành viên trong Ban chỉ đạo thuộc
một số bộ, ngành liên quan như Bộ Công an, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ
Khoa học và Công nghệ đã cùng ngồi lại với nhau bàn bạc đưa ra các
phương án triển khai, quản lý đầu tiên cho một dịch vụ hoàn toàn mới
mẻ. Ông nhớ lại, văn bản pháp lý đầu tiên về quản lý dịch vụ Internet
là Nghị định 21 được ban hành tháng 3/1997 chuẩn bị cho việc chính thức
mở Internet Việt Nam sau đó vào tháng 11. See you on Internet Nói
như nhiều chuyên gia, 10 năm là một cột mốc dài. Bản thân cá nhân
nguyên Thứ trưởng Mai Liêm Trực cũng thừa nhận sức mạnh của Internet
thực sự quá lớn. Sự phát triển như vậy rất mạnh mẽ, không những cho sự
phát triển của kinh tế xã hội mà kể cả an ninh quốc phòng... Đứng về tư
duy đã có sự thay đổi lớn. Internet nhạy cảm như vậy mà vẫn phát triển.
Đó cũng còn là một bước ngoặt về thịtrường Internet, viễn thông của
Việt Nam đã bắt đầu có cạnh tranh từ năm 1997. Internet vào Việt Nam
đã được cơ quan quản lý nhà nước thực hiện cho cạnh tranh kinh doanh
ngay từ đầu. Bốn ISP là VDC, Netnam, FPT, và Saigonnet cùng một ngày
19/11/1997được Tổng cục Bưu điện cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ. Bốn
doanh nghiệp khi xin phép Tổng cục Bưu điện được cấp giấy phép kinh
doanh dịch vụ Internet đã có sự chuẩn bị rất tích cực đặc biệt là cơ sở
hạ tầng viễn thông. Nguyên Thứ trưởng nhấn mạnh đến hạ tầng viễn thông
đã rất hiện đại của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông VNPT lúc đó. VDC
- doanh nghiệp trực thuộc VNPT đã là đơn vị chủ lực thiết lập được các
cơ sở kỹ thuật, trong những ngày đầu đã giúp cho ban chỉ đạo quốc gia
đi khảo sát, kiểm tra yên tâm có thể triển khai dịch vụ. Sau
gần 3 năm triển khai Internet thấy rằng những mặt tốt đã nhiều hơn
những mặt hạn chế, và cần phải tham gia mạng Internet toàn cầu. Lúc đó,
thị trường Internet mới bắt đầu cạnh tranh mạnh hơn cùng với những động
thái từ phía cơ quan quản lý nhà nước là Tổng cục Bưu điện như điều
chỉnh giá cả giảm xuống, dung lượng đường truyền tăng lên, mở mạng công
cộng Internet cà phê... Sự
hưởng ứng của xã hội đã rất mạnh mẽ. Sức mạnh của Internet, cái lợi của
Internet mọi người đã cảm thấy. Nguyên Thứ trưởng đã minh hoạ, câu nói
tiếng Anh: See You Again trước đây người ta hay dùng khi chào tạm biệt
nhau đã được thay bằng See you on Internet. Kể cả trong nước và nước
ngoài người ta cũng sử dụng câu chào ấy. Việc
xây dựng Nghị định 55 ban hành ngày 23/8/2001 thay thế cho Nghị định cũ
cũng lại là quá trình thuyết phục từng bước, phát triển đến đâu quản lý
tới đó. Đây là sự thay đổi về mặt tư duy. Ngay cả việc bảo mật thông
tin của cơ yếu cũng đã có sự thay đổi. Trước đây việc bảo mật thông tin
trước bằng mật mã, mã khoá cứng, bằng cơ công, bằng con người thì nay
mã bằng công nghệ số tin học. Theo ông Trực, Việt Nam
cũng có những giải pháp về kỹ thuật như bức tường lửa, cả những giải
pháp về hành chính như những thông tư, quy định để quản lý. Nhưng quan
trọng nhất là nâng cao được dân trí. Báo điện tử đã giúp chúng tôi vững tin hơn khi đưa Internet vào Việt Nam Trong
cuộc nói chuyện với phóng viên, không dưới hai lần Nguyên Thứ trưởng đề
cập tới vai trò của báo điện tử trong những ngày đầu Internet chập
chững vào Việt Nam.
Ông cho rằng, phải xác định không tham gia phát triển Internet là không
được, mất cơ hội. Một trong những lý do sau này giúp chúng tôi vững tin
vào việc mở Internet ở Việt Nam
hơn đó chính là sự kiện báo điện tử ra đời. Sau đó vài ba năm nghĩ lại
giật mình, nếu mình không đấu tranh để mở được, chỉ cần sau 3-4 năm nữa
mới mở thì không biết Việt Nam
lạc hậu tới mức nào. Lúc đó khi mở ra, một hai năm đầu cũng có những
vấn đề nhất định thậm chí cũng có những ý kiến đề nghị đóng lại. Nhưng
tôi rất mừng là khi ấy đã có nhiều báo điện tử ra đời. Những tờ báo
điện từ đầu tiên như tờ báo Quê hương, thời báo kinh tế Việt Nam điện tử... Trước đó giới đầu tư nước ngoài rất ít thông tin về đầu tư tại Việt Nam nên họ ngại, sợ đầu tư vào Việt Nam
nhưng khi mở những trang báo điện của chúng ta ra, họ đã có được những
thông tin chính thống. Báo điện tử đã phát huy tác dụng rất tốt. Ba năm đầu Internet vào Việt Nam
lượng người sử dụng còn ít vì khi đó chưa có mạng Internet công cộng.
Lúc đó phần lớn chỉ có báo chí lên mạng tốt, lợi ích thứ hai là các nhà
khoa học, nhà quản lý truy cập Internet để tìm hiểu thông tin phục vụ
công tác quản lý, nghiên cứu khoa học... đã thấy sức mạnh của Internet.
Mỗi
mốc thời gian dù đã diễn ra cách đây mươi năm, như từ năm 1997 đến
2000, thấy sự phát triển của Internet về cơ bản là rất tốt, cạnh tranh
sẽ thúc đẩy sự phát triển và thị trường Internet phát triển sau ba năm
cạnh tranh là khá lành mạnh ở chỗ VDC chiếm chừng khoảng 58-60%, FPT
khoảng 28-30%... Rồi rút kinh nghiệm về phát triển Internet, Tổng cục
Bưu điện đã đề ra kế hoạch mở cửa thị trường viễn thông. Năm 2000 Tổng
cục Bưu điện đã quyết định mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông đầu
tiên là VoIP... Tất cả những mốc đó đều được Nguyên Thứ trưởng nhớ như
in từng ngày bởi theo ông, đó là sự trăn trở ngày đêm. Giờ
khi đã về nghỉ, tự nhận với vai trò là một cổ động viên ở ngoài sân cỏ
nhưng với sự phát triển của Internet, Nguyên thứ trưởng vẫn rất tâm
huyết. Theo ông, xét về mặt công nghệ mạng lưới, chất lượng dịch vụ,
giá cước... đương nhiên luôn có sự đổi mới, nâng cấp và điều chỉnh tuy
nhiên về cơ bản là khá ổn nhưng Internet giờ không còn là dịch vụ với
công nghệ đơn thuần mà nó đã là một phần của cuộc sống rất sôi động
hiện nay của thời kỳtoàn cầu hoá. Trong thời kỳ ấy sự phát triển của
công nghệ rất nhanh và nó có sự hội tụ giữa công nghệ và dịch vụ, giữa
nội dung với dịch vụ nên cả vấn đề tư duy, nhận thức và cách thức quản
lý vẫn đang còn lúng túng. Hay nói cách khác, thời đại của xã hội thông
tin, nền kinh tế tri thức trong đó vai trò của Internet và CNTT phần
cứng phần mềm rất lớn. Thời điểm này muốn cho Internet phát triển một
cách tốt, nhanh lành mạnh thì một lần nữa lại cần có sự đổi mới tư duy
thực sự, cần có cách tiếp cận thực sự với những việc của công nghệ, của
nội dung, của nền kinh tế tri thức thì mình mới có thể có một hành lang
pháp lý, một chính sách đủ tầm nhìn chứ không nên chỉ có đi giải quyết
từng sự việc hay một vấn đề cụ thể nào đó. Và theo Nguyên Thứ trưởng, Internet Việt Nam đang bắt đầu một giai đoạn mới...
Thuỷ Nguyên (Theo VnMedia)
|